Nguyễn Thị Giang 

  1. Điều kiện về các tình tiết giảm nhẹ

Khi xem xét, quyết định cho người phạm tội được hưởng án treo hay không thì ngoài các điều kiện về mức phạt tù, điều kiện về nhân thân người phạm tội, còn một điều kiện nữa mà tòa án phải xem xét – đó là tòa án phải đánh giá, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi họ thực hiện tội phạm. Vậy, các tình tiết giảm nhẹ là gì?

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những dấu hiệu khách quan và chủ quan của hành vi phạm tội, không nằm trong cấu thành tội phạm và khi xuất hiện chúng làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện và của người phạm tội.

Xuất phát từ bản chất của chế định án treo – không bắt người bị kết án cách ly ra khỏi xã hội mà để họ tự giáo dục, cải tạo nhưng để đánh giá khả năng tự giáo dục, cải tạo trong thời gian thử thách của người bị kết án thì ngoài việc đánh giá các tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân người phạm tội thì việc đánh giá các tình tiết giảm nhẹ cũng là một điều kiện bắt buộc.

Nói cách khác để được hưởng án treo cần phải có những tình tiết giảm nhẹ trong việc thực hiện tội phạm. Theo tinh thần của Điều 60 Bộ luật Hình sự thì ít nhất phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên bởi những tình tiết giảm nhẹ là những dấu hiệu khách quan và chủ quan của hành vi phạm tội, nó sẽ làm giảm đi rất nhiều tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như của người phạm tội, nó sẽ ít nhiều nói lên bản chất của người phạm tội, của hành vi phạm tội và từ đó mức hình phạt sẽ được giảm xuống.

Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tập trung các tình tiết giảm nhẹ tại Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 và áp dụng chung. Do đó, việc đánh giá các tình tiết giảm nhẹ khi xem xét cho hưởng án treo đòi hỏi Tòa án phải đánh giá trong mối quan hệ với các điều kiện khác và với sự diễn biến của một hành vi phạm tội trong thực tế khi xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Điều 47 BLHS năm 1999 quy định: Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Như vậy, bên cạnh các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự nêu trên thì nhà làm luật còn dành cho tòa án quyền tự quyết định những tình tiết khác trong đời sống thực tế là tình tiết giảm nhẹ theo từng trường hợp cụ thể và phù hợp với pháp luật.

Trước hết là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, gồm:

  1. a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  2. b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;
  3. c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  4. d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

  1. e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
  2. g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
  3. h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  4. i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
  5. k) Phạm tội do lạc hậu;
  6. l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  7. m) Người phạm tội là người già;
  8. n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  9. o) Người phạm tội tự thú;
  10. p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
  11. q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;
  12. r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội[1];
  13. s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác[2].

Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trong luật hình sự thể hiện sự đánh giá, nhìn nhận đúng đắn và khoa học của nhà làm luật về hành vi phạm tội và bản chất của tội phạm, từ đó sẽ nhìn nhận được khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội.

Nếu như một người khi thực hiện tội phạm nhưng ngay sau đó đã nhận ra lỗi lầm mà ngăn chặn lại hoặc làm giảm bớt hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà ngay trước đấy người đó mong muốn đạt được, loại phạm tội do bị đe dọa cưỡng bức thì cũng thể hiện rằng về mặt bản chất, tâm lý người đó thực sự không muốn thực hiện tội phạm song vì bị người khác đe dọa cưỡng bức mà phải phạm tội. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ này nếu xuất hiện trong các hành vi phạm tội cụ thể, nó sẽ nói lên bản chất của người phạm tội là không nguy hiểm lắm và cũng sẽ làm giảm đi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, giúp cho tòa án đánh giá được bản chất của người phạm tội. Và một lẽ được nhiên rằng người phạm tội mà có các tình tiết giảm nhẹ này thì việc áp dụng cho họ một sự khoan hồng của nhà nước sẽ là điều kiện cần thiết giúp họ quay trở lại làm người lương thiện, vì các tình tiết giảm nhẹ đặt trong mối quan hệ với các dấu hiệu tích cực sẽ nói lên được khả năng cải tạo, giáo dục. Một trong những sự khoan hồng mà nhà nước cho người phạm tội được hưởng là án treo. Việc áp dụng án treo cho những người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ thu được kết quả cải tạo tốt hơn so với áp dụng các hình phạt tù có thời hạn.

Bên cạnh các tình tiết giảm nhẹ được quy định trong khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 1999 thì cũng tại khoản 2 của Điều luật quy định: “Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.”

Quy định này thể hiện một sự nhìn nhận sâu sắc và biện chứng về hành vi phạm tội và con người phạm tội của luật hình sự nước ta. Xuất phát từ thực tế cuộc sống luôn luôn vận động, phát triển đa dạng mà luật pháp chỉ điều chỉnh những quan hệ khái quát nhất và cơ bản nhất. Vì vậy, để đánh giá đúng hành vi phạm tội, con người phạm tội thì nhà làm luật cũng dành cho tòa án quyền coi các tình tiết khác là các tình tiết giảm nhẹ. Điều này thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta và cũng là để theo hợp với sự biến chuyển của quan hệ xã hội.

Việc đánh giá các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 1999 cũng như việc tòa án có quyền coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ song không có nghĩa là tòa án tùy tiện đưa ra bất kỳ tình tiết nào và coi đấy là tình tiết giảm nhẹ mà phải xem xét, đánh giá cùng với các căn cứ khác, đối chiếu với các tình tiết của vụ án, và với mỗi loại tội phạm nhất định (ví dụ không thể coi “trình độ nghiệp vụ non kém” là tình tiết giảm nhẹ của tội hiếp dâm) và để thuận lợi cho các tòa án khi coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ thì tại điểm c Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999, quy định gồm các tình tiết sau:

– Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:

– Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

– Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;

– Người bị hại cũng có lỗi;

– Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

– Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

– Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

– Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ này đã tạo thuận lợi cho các tòa án khi vận dụng khoản khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Nó tạo ra một sự định hướng cho các tòa án khi đánh giá các tình tiết giảm nhẹ để rồi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc hướng dẫn trong nghị quyết này là tạo thuận lợi cho tòa án vận dụng quy định của Bộ luật Hình sự song không vì thế mà tòa án chỉ áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đã được hướng dẫn mà tòa án vẫn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, bởi vì sự hướng dẫn ở đây mới chỉ là khái quát được phần lớn, và mang tính định hướng, còn thực tế hiện tượng tội phạm diễn biến, quan hệ xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Vì vậy, sẽ xuất hiện các tình tiết giảm nhẹ mà luật chưa khái quát hết được. Ví dụ, A vô ý làm chết C trong khi C lại là con duy nhất của D, sau khi sự việc xảy ra A đã vô cùng hối lỗi, tích cực bồi thường đồng thời tự nguyện nhận làm con nuôi D, đi lại chăm sóc đầy đủ, lúc ốm đau cũng như khỏe mạnh, mong chuộc lại lỗi lầm của mình và làm dịu bớt nỗi đau của D. Vì vậy, việc làm con nuôi D một cách tự nguyện và đi lại chăm sóc đầy đủ cũng có thể coi là một tình tiết giảm nhẹ được chứ.

Nói tóm lại, tồn tại trong luật hình sự Việt Nam có ba loại tình tiết giảm nhẹ là các tình tiết giảm nhẹ quy định trong khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999, các tình tiết giảm nhẹ được quy định trong các văn bản dưới luật như nghị quyết của tòa án nhân dân tối cao, thông tư liên ngành và các tình tiết khác do tòa án khi xét xử căn cứ vào từng vụ án cụ thể mà quyết định đó là tình tiết giảm nhẹ. Song có giá trị pháp lý cao nhất và khái quát nhất phải là các tình tiết giảm nhẹ được quy định trong khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 vì đây là các tình tiết giảm nhẹ thưc sự làm giảm đi tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Vì lẽ đó, khi xem xét cho hưởng án treo tòa án cần phải xem xét các tình tiết giảm nhẹ này và chỉ khi không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự,trong mối liên hệ và đáp ứng các điều kiện khác nữa vấn đề án treo mới được đặt ra. Còn riêng các tình tiết giảm nhẹ mà tòa án khi xét xử coi là tình tiết giảm nhẹ thì tòa án cần phải xem xét kỹ lưỡng, đánh giá toàn diện với các căn cứ, tình tiết khác nữa của vụ án để đi đến một quyết định chính xác, phù hợp với tinh thần của pháp luật chứ không phải tùy tiện đặt ra các tình tiết giảm nhẹ không cần biết là có hợp lý hay không. Vi phạm điều này sẽ làm ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật, tạo tâm lý coi thường pháp luật và sẽ không có tác dụng giáo dục người phạm tội vì không đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

  1. Điều kiện về yêu cầu phòng ngừa tội phạm – xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù

Ngoài các điều kiện về mức phạt tù là không quá 3 năm, có nhân thân tốt và có các tình tiết giảm nhẹ thì khi xem xét việc cho hưởng án treo hay không, tòa án còn cần phải căn cứ vào một điều kiện thứ tư nữa đó là yêu cầu phòng ngừa tội phạm.

Như vậy, yêu cầu phòng ngừa tội phạm là một điều kiện đặt ra khi xem xét việc cho hưởng án treo và có một ý nghĩa quan trọng. Trong nhiều trường hợp, một người phạm tội đã thỏa mãn các điều diện về mức phạt tù, về nhân thân và có các tình tiết giảm nhẹ, song không thỏa mãn được yêu cầu thứ tư này thì việc cho hưởng án treo cũng không được đặt ra. Vậy nên có thể hiểu điều kiện về yêu cầu phòng ngừa tội phạm là điều kiện mang tính quy kết của cả ba điều kiện trên. Nếu như ba điều kiện trên thuộc về bản thân người phạm tội, thì điều kiện thứ tư này lại mang tính khách quan – đó là yêu cầu của xã hội trong đấu tranh với các loại tội phạm.

Do đó, để được hưởng án treo thì đương nhiên là cần phải thỏa mãn cả bốn điều kiện này và tòa án khi xem xét, đánh giá phải dựa trên sự đáp ứng đủ bốn điều kiện này thì mới quyết định cho hưởng án treo. Vậy, để được hưởng án treo, điều kiện về yêu cầu phòng ngừa tội phạm được đặt ra như thế nào đối với người phạm tội. Biểu hiện cụ thể của yêu cầu phòng ngừa tội phạm đối với người phạm tội được hiểu trên hai khía cạnh cụ thể là:

–                      Việc cho người phạm tội được hưởng án treo song vẫn đảm bảo khả năng họ sẽ không tiếp tục phạm tội nữa; và

–                      Việc cho người phạm tội được hưởng án treo không làm ảnh hưởng xấu tới công tác đấu tranh chống tội phạm ở địa phương, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, tạo cho người dân thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

Ở khía cạnh thứ nhất, việc cho hưởng án treo song vẫn đảm bảo khả năng người được hưởng án treo không tiếp tục phạm tội nữa, đòi hỏi tòa án phải quyết định được một hình phạt đúng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trên cơ sở kết hợp với sự đánh giá về nhân thân, về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định được một hình phạt đúng. Một hình phạt đúng sẽ có một tác dụng giáo dục rất lớn, nhất là trong trường hợp cho hưởng án treo mà hình phạt tòa án tuyên cho bị cáo đúng là “không quá 03 năm” thì việc cho hưởng án treo sẽ có tác dụng giáo dục cao, người bị kết án cảm thấy hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình từ đó mà sẽ có những nhận thức đúng đắn, thấy được sự nghiêm minh của pháp luật để rồi đi đến sự thay đổi thái độ và tích cực cải tạo mong trở thành người lương thiện. Và như vậy nếu được hưởng án treo thì khả năng lại tiếp tục phạm tội nữa sẽ không xảy ra bởi vì họ đã nhận thức được lỗi lầm. Ngược lại, những trường hợp vì muốn cho hưởng án treo, mà cán bộ xét xử đáng lẽ phải tuyên một mức hình phạt tù lớn hơn 3 năm tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội song lại cố ý hạ xuống 03 năm để rồi cho hưởng án treo thì đã thể hiện sự không đáp ứng yêu cầu phòng ngừa riêng đối với tội phạm và sự đảm bảo khả năng không tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách là con số không. Bởi vì việc quyết định hình phạt sai như vậy sẽ tạo tâm lý coi thường pháp luật cho kẻ phạm tội, không thấy được sự nghiêm minh của pháp luật và đi đến “tâm lý là cứ phạm tội đi rồi lại được hưởng án treo”. Chính sự nhận thức này sẽ nói lên khả năng phạm tội của người được hưởng án treo là rất dễ xảy ra, họ sẽ không có sự chuyển biến về mặt nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, và vì vậy việc quyết định hình phạt sai dẫn đến việc cho hưởng án treo sai sẽ tạo ra những hậu quả pháp lý tiêu cực, không phát huy được tính tích cực, tiến bộ của chế định án treo. Hiện nay, số người được hưởng án treo tái phạm với một tỷ lệ cao một phần là do bắt nguồn từ nguyên nhân quyết định hình phạt sai.

Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quy định phải xem xét về nơi cư trú  của bị cáo khi Tòa án xem xét cho hưởng án treo. Tính nghiêm khắc của án treo nằm ở giai đoạn thử thách, nếu người được hưởng án treo phạm tội mới trong giai đoạn thử thách thì chế tài họ phải chịu rất nghiêm khắc. Để biết được người đươc hưởng án treo chịu sự thử thách như thế nào? Luật Thi hành án hình sự đã quy định rất cụ thể về nghĩa vụ của người được hưởng án treo, trách nhiệm của chính quyền địa phương nơi người hưởng án treo cư trú, người được phân công theo dõi, giáo dục người được hưởng án treo. Mặt khác, một thời kỳ dài trước khi có Luật THAHS thì việc theo dõi người hưởng án treo không được quy định rõ ràng, Tòa án tuyên án xong thì việc “giao” người hưởng án treo như thế nào cũng không rõ, người được hưởng án treo bỏ đi nơi khác sinh sống cũng không có cơ quan nào biết để giám sát, giáo dục, điều này làm mất đi tính nghiêm khắc của án treo và tạo ra dư luận không tốt án treo hoặc tâm lý “chạy” để được hưởng án treo. Quy định này thực chất là nằm trong yêu cầu về phòng ngừa tội phạm và nhằm bảo đảm thống nhất với quy định của Luật thi hành án hình sự. Bởi lẽ, người được cho hưởng án treo chấp hành nghiêm túc các nghĩa của mình trong thời gian thử thách, chính quyền nơi cư trú giám sát chặt chẽ việc thực hiện nghĩa vụ của người được hưởng án treo thì không chỉ ngăn ngừa người được hưởng án treo phạm tội mà còn có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung.

 Nói tóm lại, để việc cho hưởng án treo song vẫn đảm bảo khả năng người được hưởng án treo không tiếp tục phạm tội mới thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải có một hình phạt đúng trên cơ sở sự đánh giá về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, sự đánh giá về nhân thân, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vì một hình phạt đúng sẽ làm thay đổi thái độ nhận thức của người phạm tội và họ sẽ tích cực cải tạo.

Yêu cầu phòng ngừa tội phạm còn thể hiện ở khía cạnh thứ hai là việc cho hưởng án treo không làm ảnh hưởng tới công tác đấu tranh chống tội phạm ở địa phương. Điều này có nghĩa là khi tòa án quyết định cho một người được hưởng án treo thì tòa án cần phải đánh giá yêu cầu của công tác đấu tranh chống tội phạm tại địa phương, nơi sẽ giao người bị kết án về và đánh giá tình hình tội phạm ở địa phương này.

Khi tòa án xem xét, đánh giá yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm của địa phương, mà thấy rằng nếu cho người phạm tội được hưởng án treo sẽ ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh chống tội phạm thì cũng không thể cho hưởng án treo. Ví dụ chúng ta đang tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy… mà khi xét xử tòa án lại cho nhiều người phạm tội này được hưởng án treo thì rõ ràng là đã không phục vụ cho công tác đấu tranh chống tội phạm, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến công tác này, tạo ra sự coi thường pháp luật và sẽ dễ dàng dẫn đến người hưởng án treo tái phạm. Việc xem xét đến yêu cầu đấu tranh chống tội phạm khi quyết định việc ho hưởng án treo hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Trong tình hình hiện nay, số vụ tội phạm hiếp dâm có chiều hướng gia tăng đặc biệt là các vụ hiếp dâm trẻ em chưa thành niên. Yêu cầu đặt ra là cần phải xử thật nghiêm khắc loại tội phạm này. Vì vậy, những trường hợp dù kẻ phạm tội đã đáp ứng đủ các điều kiện về mức hình phạt tù, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ thì cũng không nên cho hưởng án treo hoặc hạn chế tới mức tối đa việc cho hưởng án treo. Điều này sẽ phục vụ đắc lực cho công tác đấu tranh chống loại tội phạm này vì nếu cho hưởng án treo với những kẻ phạm tội này dễ gây bất bình trong nhân dân và tạo tâm lý coi thường pháp luật, coi thường danh dự, nhân phẩm người khác của bản thân kẻ phạm tội cũng như những phần tử xấu.

Cùng với việc đánh giá yêu cầu phòng, chống tội phạm ở địa phương, nơi tòa án giao người bị kết án treo về, thì việc đánh giá tình hình tội phạm là rất cần thiết. Sự đánh giá này được thể hiện ở mối quan hệ giữa loại tội mà người phạm tội đã thực hiện với tình hình tội phạm chủ yếu ở địa phương để thấy được sự ảnh hưởng giữa chúng với nhau và liệu để người phạm tội cải tạo trong môi trường như vậy thì các phần tử xấu có làm ảnh hưởng đến người được hưởng án treo này không? Và người được hưởng án treo sẽ dễ dàng bị lôi kéo hay không? Nếu như khả năng tái phạm tội đối với người được hưởng án treo dễ xảy ra, hay tình hình tội phạm ở địa phương gây tác động xấu đến người được hưởng án treo (nếu họ được hưởng án treo) thì tòa án sẽ quyết định không cho hưởng án treo nữa vì không đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Bởi vì một số loại tội phạm như mại dâm, ma túy, cờ bạc nếu để người phạm tội được hưởng án treo trong tình hình tội phạm diễn ra ở địa phương rất phức tạp, các tệ nạn xã hội phát triển thì họ sẽ dễ dàng tái phạm ngay do xuất phát từ bản chất của các loại tội này và sự lôi kéo của các phần tử xấu.

Một yêu cầu khác nữa của các điều kiện phòng ngừa tội phạm được thể hiện ở sự đồng tình ủng hộ của nhân dân đối với bản án treo, có nghĩa là nhân dân thấy được tính nghiêm minh, đúng đắn của bản án treo, tâm lý tin tưởng vào pháp luật của nhân dân, từ đó phát huy được tính tích cực của chế định này là việc lôi kéo một tập thể người vào giáo dục, quản lý một người, tích cực tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm.

Vậy có thể kết luận rằng, yêu cầu phòng ngừa tội phạm đặt ra là tòa án phải ra một bản án đúng từ đó giúp cho người phạm tội thấy được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tương xứng với hình phạt từ đó có sự thay đổi nhận thức và có thái độ tích cực. Trên cơ sở đánh giá yêu cầu phòng, chống tội phạm, cũng như tình hình tội phạm mà việc cho hưởng án treo không gây tác động xấu thì có nghĩa là đã thoả mãn các điều kiện khác nữa thì không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù và việc cho hưởng án treo để họ tự giáo dục cải tạo là cần thiết và đúng đắn.

Tuy nhiên, khi xem xét yêu cầu phòng ngừa tội phạm thì cần phải chú ý tới sự hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP thì không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

–  Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật Hình sự bao gồm: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;

– Bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội;

–  Trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và bị đưa ra xét xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án khác hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác;

–  Bị cáo tại ngoại bỏ trốn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã đề nghị cơ quan điều tra truy nã.

Xét điều kiện về yêu cầu phòng ngừa tội phạm đối với người phạm tội trước khi quyết định dành cho họ được hưởng án treo, tòa án cần xem xét kỹ lưỡng sự hướng dẫn của tòa án nhân dân tối cao. Nếu như tuân thủ sự hướng dẫn này sẽ đánh giá được khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội hay khả năng tiếp tục phạm tội của người bị kết án.

Một khía cạnh khác của yêu cầu phòng ngừa tội phạm về phía tòa án là cần phải tổ chức phiên tòa xét xử lưu động hay cố định phải thật sự chu đáo, thể hiện một sự nghiêm minh của pháp luật cũng như một trình độ văn hóa pháp lý. Điều này sẽ có tác dụng giáo dục rất lớn đối với người phạm tội nói riêng và đối với quần chúng nhân dân nói chung.

Tóm lại, khi tòa án xem xét cho hưởng án treo hay không cho hưởng án treo đều phải dựa trên sự đánh giá cả 04 yếu tố: (1) Điều kiện về mức phạt tù; (2) Điều kiện về nhân thân người phạm tội; (3) Điều kiện về các tình tiết giảm nhẹ; (4) Điều kiện về yêu cầu phòng ngừa tội phạm – xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. Sự đánh giá phải mang tính toàn diện, khách quan, cân bằng giữa bốn điều kiện, không thiên về điều kiện này mà coi nhẹ điều kiện kia, và thiếu dù chỉ một trong bốn điều kiện này thì kiên quyết không cho hưởng án treo. Bên cạnh đó, các tòa án cần phải tuân thủ sự hướng dẫn về đường lối xét xử của các văn bản pháp luật do tòa án nhân dân tối cao ban hành, song vẫn phải giữ nguyên tính độc lập trong hoạt động xét xử của mình.

Và tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP đã hướng dẫn như sau: “Khi xem xét, quyết định cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, cần lưu ý:

  1. a) Đối với trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giữ, tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù;
  2. b) Những trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nếu có đủ điều kiện để áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự thì cũng phải xử trong khung hình phạt liền kề là đã thể hiện chính sách khoan hồng đối với họ; không được xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với các tội phạm mà dư luận xã hội lên án, đặc biệt là các tội phạm về chức vụ, để phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng;
  3. c) Những trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng, nếu Viện kiểm sát không truy tố cũng phải áp dụng để xét xử đúng quy định của pháp luật; nếu còn có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự cũng phải được áp dụng đầy đủ; không được vì muốn cho hưởng án treo mà không áp dụng đầy đủ các tình tiết định khung tăng nặng và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự;
  4. d) Khi quyết định hình phạt phải tuân thủ nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 của Bộ luật Hình sự kết hợp với các căn cứ quyết định hình phạt quy định tại Điều 45 của Bộ luật Hình sự; không được cho rằng án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù để tăng hình phạt lên cao hơn các trường hợp khác không có căn cứ và cho hưởng án treo; không được tùy tiện giảm mức hình phạt tù không có căn cứ để đủ điều kiện về mức hình phạt tù quy định tại Điều 60 của Bộ luật Hình sự và cho hưởng án treo.”

Việc thực hiện tốt các quy định này sẽ giúp cho tòa án ra những bản án nói chung và bản án cho hưởng án treo nói riêng đúng người đúng tội, hoàn toàn dựa trên các căn cứ pháp luật và phù hợp vớiluậtpháp.

[1] “Đã lập công chuộc tội” là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt kẻ phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của người khác… được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận.

[2] Là người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua…

Nguồn: http://moj.gov.vn (Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp)

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Mức phạt nồng độ cồn trong máu và trong khí thở

Nồng độ cồn (BAC) là lượng cồn trong máu của một người. Nó được đo bằng miligam cồn trên 100 mililít máu (mg/dL). BAC có thể được đo bằng cách sử dụng nhiều loại phương pháp khác nhau, bao gồm: Hơi thở: Đây là phương pháp phổ biến nhất để đo

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!