Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

MỞ ĐẦU

Trong hoạt động tố tụng hình sự, vấn đề đánh giá và sử dụng chứng cứ không chỉ có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với những người tiến hành tố tụng mà còn đối với Luật sư-người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác. Bởi vì đánh giá và sử dụng chứng cứ là yếu tố bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được chính xác trong việc điều tra, truy tố xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân.

Đối với Luật sư, khi tham gia tố tụng dù với vai trò là người bào chữa cho của bị can, bị cáo hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, lợi ích hợp pháp của đương sự… thì Luật sư cùng với thân chủ của mình luôn trở thành một bên trong tố tụng. Do đó khi đã trở thành một bên trong tố tụng thì Luật sư phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ nhằm bác lại quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, có thể nói, sự hiểu biết về lý luận chứng cứ và khả năng sử dụng chứng cứ trong tố tụng là những điều kiện quan trọng bảo đảm sự thành công của Luật sư trong tranh tụng.

Xuất phát từ vấn đề trên, việc tìm hiểu vấn đề “Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động đánh giá và sử dụng chứng cứ ” có một ý nghĩa lý luận và thực tế rất lớn, nhằm nâng cao sự nhận thức cũng như kỹ năng nghề nghiệp của Luật sư trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.

Đó cũng chính là lý do mà người viết chọn đề tài trên cho bài tiểu luận của mình.

Cơ cấu tiểu luận gồm hai chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về chứng cứ trong vụ án hình sự

Chương 2: Một số vấn đề trong hoạt động đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ ĐÁNH GIÁ, SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Một số vấn đề về chứng cứ

1.1.1. Khái niệm chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTHS

Trong một vụ án hình sự mỗi sự kiện phạm tội xảy ra trong quá khứ bao giờ cũng để lại những dấu vết vật chất, tinh thần trong thế giới khách quan, mà mỗi dấu vết phản ánh những mặt riêng lẽ của nó. Sự kiện phạm tội, người phạm tội và những tình tiết có liên quan là đối tương để các cơ quan tiến hành tố tụng phải nhận thức làm sáng tỏ thông qua những dấu vết đó. Sự nhận thức những dấu vết của tội phạm để lại trong thế giới khách quan không phải là hành động thụ động, tức thời mà là quá trình biện chứng. Nhận thức của những người tiến hành tố tụng về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự (BLTTHS) nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan và những người tiến hành tố tụng, điều này có nghĩa rằng những người nói trên có nghĩa vụ phải đi thu thập chứng cứ. Điều 19 BLTTHS quy định kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại,… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu tranh luận trước toà án. Vậy chứng cứ là gì và những đối tượng nào được xem là chứng cứ mà những người có quyền hoặc có nghĩa vụ thu thập để chứng minh cho sự thật của vụ án.

Theo điều 64 BLTTHS, “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật TTHS quy định mà cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”

Chứng cứ được xác định bằng:

– Vật chứng

– Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

– Kết luận giám định

– Biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và các tài liệu đồ vật khác.

Từ những quy định trên chúng ta có thể hiểu chứng cứ như sau:

Chứng cứ tồn tại trong thế giới khách quan hoặc phản ánh đúng thực tế khách quan; và nó có liên quan đến vụ án hình sự, được các cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự hay những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án; và được thu thập theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.

1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ

Từ quy định tại Điều 64 BLTTHS, thì một vật, tài liệu hay lời nói được coi là chứng cứ thì nó thải thoã mãn các thuộc tính, đó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.

– Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra.

Tính khách quan của chứng cứ chỉ tồn tại độc lập của nó trong thế giới khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

Tính khách quan của chứng cứ có cơ sở lý luận là nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án khi giải quyết vụ án hình sự phải xuất phát từ thực tế của vụ án hình sự để nhận thức chứ không lấy ý chí chủ quan để áp đặt, phải tôn trọng sự thật khách quan, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến không trung thực. Thuộc tính này đòi hỏi chứng cứ để xác định sự thật của vụ án hình sự, phải tồn tại trong thực tế khách quan, phân tích vụ án một cách trung thực như nó vốn có, đồng thời phải phát huy nỗi lực chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

– Tính liên quan: Tính liên quan của chứng cứ là khả năng xác định những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể có thể thu thập được nhiều tài liệu khác nhau nhưng chỉ có những tài liệu nào đó mới có liên quan đến vụ án. Tức là chúng có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.

– Tính hợp pháp: Tính hợp pháp của chứng cứ là sự phù hợp của việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ với những quy định pháp luật tố tụng hình sự. Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ. Nếu như tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ thể hiện bình diện khách quan thì tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện bình diện pháp lý. Đây là thuộc tính pháp lý của chứng cứ, có cơ sở lý luận là nguyên tắc pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự và là nguyên tắc hết sức quan trọng, nó có vai trò cơ bản của toàn bộ quá trình xây dung Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Ba thuộc tính của chứng cứ tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là một thể thống nhất có mối quan hệ biẹn chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Tính khách quan là tiền đề của tính hợp pháp và tính liên quan, còn tính liên quan là tiền đề của bảo đảm của tính hợp pháp và tính khách quan còn tính hợp pháp là cơ sở pháp lý của tính liên quan và tính khách quan. Chứng cứ phải thực sự thống nhất của ba thuộc tính đó, nếu thiếu một trong trong thuộc tính nói trên thì không thể công nhận là chứng cứ.

1.1.3. Nguồn chứng cứ

Pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể các nguồn của chứng cứ và chỉ những nguồn được chỉ ra theo quy định của pháp luật thì mới được thừa nhận là chứng cứ. Theo khoản 2 điều 64 BLTTHS nguồn chứng cứ được xác định bằng:

– Vật chứng

– Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

– Kết luận giám định

– Biên bản về hoạt động Điều tra, Truy tố, Xét xử và các tài liệu đồ vật khác.

Từ nguồn chứng cứ trên các cơ quan tiến hành tố tụng rút ra chứng cứ để làm căn cứ cho những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, được quy định tại điều 63 BLTTHS cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

Ngoài những nguồn chứng cứ trên quy định tại khoản 2 điều 64 BLTTHS các cơ quan tiến hành tố tụng không được rút chứng cứ từ nguồn nào khác.

1.2. Những vấn đề về đánh giá và sử dụng chứng cứ

1.2.1. Đánh giá chứng cứ

1.2.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc đánh giá chứng cứ

Khái niệm: Theo lý luận tố tụng hình sự, đánh giá chứng cứ cứ là hoạt động tư duy của những người tiến hành tố tụng, được tiến hành một cách lôgic biện chứng trên cơ sở pháp luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm, nhằm nghiên cứu đánh giá độ tin cậy của từng chứng cứ riêng biệt cũng như tổng hợp những chứng cứ trong vụ án hình sự để rút ra kết luận về vụ án.

Việc đánh giá chứng cứ phải dựa trên cơ sở của 3 thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp, các chứng cứ được thu thập được phải bảo đảm để giải quyết vụ án hình sự và không bỏ lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội.

Khi đánh giá chứng cứ phải giải quyết các vấn đề sau:

– Tài liệu đồ vật thu thập được có thể sử dụng với tính chất là chứng cứ trong vụ án hình sự có cụ thể hay không ? Việc sử dụng nó có trái với các quy định của pháp luật hay không ?

– Tính chất ý nghĩa mối quan hệ giữa chứng cứ này với chứng cứ khác trong vụ án hình sự.

– Trong tổng thể những chứng cứ đã được thu thập, chứng cứ nào có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự và tổng thể những chứng cứ đó có đáp ứng được những điều kiện cần và đủ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự không ?

– Cách sử dụng chứng cứ này trong các hoạt động tố tụng tiếp theo.

Ý nghĩa của việc đánh giá chứng cứ:

Đánh giá chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta làm rõ bản chất của vụ án trên cơ sở những chứng cứ đã thu được, đó là một quá trình lôgic nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp hay không phù hợp mối quan hệ giữa các chứng cứ với nhau, nhằm xác định:

– Việc xác định chứng cứ nào đó vào vụ án có được không ? Việc sử dụng đó có mâu thuẫn với pháp luật không ? Chứng cứ này có nằm trong tổng hợp chứng cứ vụ án không ? Chứng cứ này cũng như toàn bộ chứng cứ có giá trị như thế nào đối với việc xác định sự thật khách quan trong vụ án, nó đã đủ cơ sở để ra quyểt định tố tụng này hay quyết định tố tụng khác hay chưa? Chứng cứ này phải được tiếp tục sử dụng như thế nào trong vụ án ?

Nếu không xác định đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đánh giá chứng cứ, không xác định được đúng mục đích của việc đánh giá chứng cứ có thể sẽ dẫn đến sai lầm trong việc ra các quyết định tố tụng.

Một trong những vấn đề cần chú trong khi xem mục đích của việc đánh giá chứng cứ, là xác định mối liên quan giữa các chứng cứ với nhau. Chứng cứ bao giờ cũng được xem xét trong mối liên hệ mật thiết và lôgic với các chứng cứ khác. Đó là điều kiện cần thiết đối với việc xác định chân lý khách quan trong vụ án hình sự, đặc biệt là đối với các chứng cứ gián tiếp càng đòi hỏi chặt chẽ hơn khi xem xét đánh giá.

1.2.1.2. Nguyên tắc đánh giá chứng cứ

Khi đánh giá chứng cứ, các chủ thể phải dựa trên những nguyên tắc sau đây:

– Đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện và đầy đủ

Xuất phát từ thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan nên khi đánh giá chứng cứ, một yêu cầu được đặt ra đó là phải đánh giá các chứng cứ một cách khách quan, nghĩa là phải đánh giá những gì có thật, có cơ sở khoa học vững chắc chứ không đánh giá trên cơ sở ý chí chủ quan để từ đó áp đặt, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến không trung thực khi đánh giá chứng cứ. Vì chứng cứ trong vụ án có thể rất phức tạp, liên quan đến nhiều tình tiết khác nhau, nên khi đánh giá chứng cứ, chủ thể phải đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ, phải đặt chứng cứ đó trong mối tương quan với các tình tiết, sự việc, để từ đó mới có thể tìm ra được những mối liên hệ trực tiếp-hay gián tiếp của chứng cứ với vấn đề cần tìm hiểu.

– Đánh giá chứng cứ dựa trên cơ sở pháp luật.

Xuất phát từ tính hợp pháp của chứng cứ nên đòi hỏi các chủ thể khi đánh giá các tình tiết đã thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên cơ sở pháp luật, đó là những quy định của pháp luật, mà ở đây chính là Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Giả sử muốn xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không, hành vi đó có cấu thành tội phạm hay không, nếu có là tội gì, được quy định tại điều khoản nào của BLHS…Hoặc muốn tìm tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo chúng ta không chỉ đơn thuần đơn đưa ra những tài liệu về vấn đề đó mà còn phải dự vào các quy định về những tình tiết này được quy định tại điều 63,64 BLHS.

Cùng với pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ mà chủ thể buộc phải tuân theo. Vai trò đó thể hiện ở các quy định như: khái niệm chứng cứ; các phương tiện chứng minh; phương pháp thu thập chứng cứ; các quy định cụ thể về từng loại phương tiện chứng minh và nguyên tắc sử dụng các loại phương tiện đó.

Ví dụ BLTTHS quy định:

+ Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó.

+ Không được dùng lời khai nhận tội của bị can bị cá làm chứng cứ duy nhất để kết tội nếu nó không phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án…

– Đánh giá chứng cứ dựa vào ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội, có mối quan hệ mật thiết với pháp luật. Nó thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có. Thể hiện sự đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội.

Mặc dù là hai hiện tượng xã hội khác nhau nhưng giữa ý thức pháp luật và pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Toàn bộ những hiểu biết pháp luật và thái độ của con người đối với pháp luật tạo thành ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật có ảnh hưởng lớn đến việc áp dụng pháp luật. Do đó để đánh giá chứng cứ một cách chính xác, nhằm rút ra kết luận của vụ án đòi hỏi các chủ thể trong TTHS không chỉ đơn thuần nắm những chi tiết của vụ án mà còn có khả năng đánh giá diễn biến của hành vi phạm tội xảy ra khi cần áp dụng pháp luật. Muốn đạt được yêu cầu trên thì những người tiến hành tố tụng, khi đánh giá chứng cứ để chứng minh vụ án phải dự vào ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật là điều kiện cần thiết để áp dụng đúng đắn pháp luật. Là tiền đề quan trọng đối với hình thành và củng cố niềm tin nội tâm của các chủ thể đáng giá chứng cứ.

– Đánh giá chứng cứ dựa vào niềm tin nội tâm

Niềm tin nội tâm, đó là sự tin tưởng một cách chắc chắn vào các quyết định mà mình đã đưa ra khi giải quyết vụ án, chứ không phải là ý chí chủ quan của các chủ thể khi dánh giá chứng cứ hoặc phán đoán, hoặc linh cảm , suy luận về vụ án. Giá trị chứng minh của mỗi chứng cứ chỉ có thể được xác định sau khi đã được xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ. Trên cơ sở đó các chủ thể đưa ra quyết định của mình đối với vụ án dựa vào sự kiện, tài liệu, tình tiết thực tế đã thu thập đựơc trong quá trình tiến hành tố tụng.

Khi đánh giá chứng cứ niềm tin nội tâm có cơ sở thực tế chứ không phải những quyết định suy đoán vô căn cứ. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy nguyên nhân của việc oan, sai thường ở việc đánh giá chứng cứ theo cảm tính, chủ quan, định kiến và phiến diện dẫn đến sự ngộ nhận chứng cứ. Tức là các chủ thể thường trực tiếp thụ cảm những thông tin về vụ án, không dựa trên nguyên tăc đánh giá chứng cứ mà theo họ chỉ cần có những chứng cứ để bảo đảm thủ tục pháp lý, còn tội của bị can, bị cáo thì đã quá rõ. Biểu hiện của sự đánh giá chứng cứ theo định kiến chủ quan thường thể hiện ở chỗ cho rằng vụ án đã rõ, chỉ cần tìm cách thu thập chứng cứ, thậm chí tạo ra những chứng cứ cho phù hợp với nhận định của mình là được.

Mặc khác một số người tiến hành tố tụng không xem xét những chứng cứ trong sự tự thân vận động của nó, không đặt nó trong mối liên hệ với nhau không xem xét chứng cứ trong hoàn cảnh , điều kiện cụ thể mà chứng cứ đã phát sinh, tồn tại nên đã dẫn đến việc nhận định và kết luận không đúng về vụ án.

Tóm lại mục đích của việc áp dụng các nguyên tắc này vào việc đánh giá chứng cứ nhằm để xác định độ tin cậy của các chứng cứ trong vụ án hình sự để từ đó kết luật có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, nếu có thì vi phạm điều luật nào được áp dụng điều khoản nào trong BLHS, từ đó HĐXX dựa vào đó mà ra phán quyết đúng đắn tránh làm oan người vô tội, đồng thời cũng không bỏ lọt tội phạm.

1.2.1.3. Phương pháp đánh giá chứng cứ

Đánh giá chứng cứ có ảnh hưởng đến việc sử dụng chứng cứ, làm cơ sở cho việc nhận định và kết luận về bản chất của vụ án mà chúng ta đang cần giải quyết. Do vậy đòi hỏi các chủ thể phải thận trọng, khách quan, có tác phong tỷ mỷ, cụ thể nắm vững việc vận dụng tốt và có khoa học về chứng cứ.

Trong thực tế đôi khi một sự việc phạm tội xảy ra có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong việc đánh giá chứng cứ, để kết luận về vụ án. Do đó để kết luận chính xác về một vụ án và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chủ thể phải sử dụng tổng hợp các phương pháp đánh giá, đó là

+ Đánh giá từng chứng cứ .

+ Đánh giá tổng hợp toàn bộ chứng cứ.

Giá trị chứng minh của chứng cứ chỉ có thể được xác định đúng nếu chúng ta biết dựa trên cơ sở của việc đánh giá từng chứng cứ, để đánh giá tổng hợp toàn bộ chứng cứ. Giữa hai cách đánh giá này có sự tác động qua lại lẫn nhau, tuỳ từng trường hợp cụ thể đôi khi các cơ quan tiến hành tố cũng có thể dựa trên cơ sở toàn bộ chứng cứ để xem xét lại giá trị từng chứng cứ riêng lẽ.

1.2.2. Sử dụng chứng cứ

Khái niệm: Sử dụng chứng cứ là việc các chủ thể chứng minh lựa chọn những chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo quy định của pháp luật một cách khoa học, hợp lý để đưa ra quan điểm của mình đối với việc giải quyết vụ án hình sự.

Nguyên tắc sử dụng chứng cứ:

Tuỳ vào tư cách chủ thể tham gia tố tụng ở tư cách nào mà việc sử dụng chứng cứ của các chủ thể đó khác nhau về mục đích, về cách thức sử dụng. Tuy nhiên, dù là sử dụng chứng cứ theo tư cách nào, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hay người bào chữa, bảo vệ cho các đương sự thì việc sử dụng chứng cứ cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc sử dụng chứng cứ đó là:

+ Chỉ được sử dụng những chứng cứ đã thu thập, kiểm tra, đánh giá theo quy định của pháp luật.

Trình tự thủ tục thu thập chứng cứ cũng như việc đánh giá chứng cứ phải tuân theo những quy định cụ thể của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, do đó, các chủ thể chứng minh chỉ được sử dụng những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá này. Những chứng cứ chưa được kiểm tra, đánh giá bởi các cơ quan tiến hành tố tụng thì chưa được coi là chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.

+ Sử dụng chứng cứ nhằm làm rõ đối tượng chứng minh

Việc sử dụng chứng cứ của các chủ thể không nhằm mục đích nào khác là nhằm là rõ đối tượng cần chứng minh, làm rõ sự thật của vụ án.

+ Phải khách quan, thận trọng

Nguyên tắc này đòi hỏi chủ thể chứng minh phải sử dụng chứng cứ một cách khách quan và thận trọng. Khách quan trong sử dụng chứng cứ là việc các chủ thể chỉ căn cứ vào sự thật khách quan, những tình tiết và sự việc có thật, sử dụng chứng cứ có cơ sở khoa học để đưa ra kết luận, quan điểm của mình chứ không phải là sử dụng chứng cứ một cách thiếu khoa học, chủ quan duy ý chí. Ngoài ra, chứng cứ có vai trò rất quan trọng nên việc quản lý, sử dụng chứng cứ đòi hỏi phải rất cẩn trọng tỷ mỉ, tránh việc mất mát thiếu sót.

Việc sử dụng chứng cứ cũng phải phù hợp với từng đặc điểm của các loại chứng cứ khác nhau, như đối vật chứng, đối với lời khai của bị can, bị cáo, đối với kết luận giám định, đối với lời khai của những người tham gia tố tụng khác hay đối với biên bản về các hoạt động điều tra,xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

CHƯƠNG 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ, SỬ DỤNG CHỨNG CỨ CỦA LUẬT SƯ

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải được tôn trọng và bảo vệ. Bằng hoạt động của mình trong đó có hoạt động đánh giá, sử dụng chứng cứ dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức của mình về chứng cứ, luật sư giúp bị can, bị cáo giúp bị can, bị cáo thực hiện tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nghĩa vụ của họ theo quy định pháp luật, đồng thời giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết và xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 11 BLTTHS có quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.

Như vậy, khi luật sư – người bào chữa được khách hàng mời bào chữa cho họ, tức là luật sư được tham gia vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử, được đọc các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án đó. Và để tham gia vào vụ án hình sự, luật sư được trao một số quyền, trong đó có những quyền liên quan đến chứng cứ, như:

– Phát hiện và thu thập chứng cứ.

– Đánh giá chứng cứ.

– Sử dụng chứng cứ.

Cụ thể, tại Điều 58 BLTTHS quy định “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa”:

+ Thu thập, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bị mất nhà nước, bị mất công tác;

+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu

Khi làm công việc trên, luật sư phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật, như “Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án”.

Tuy nhiên, mục đích của luật sư trong việc đưa ra chứng cứ khác với những cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi luật sư, trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khác nhau về vụ án. Trong thực tế, cũng có trường hợp, luật sư không được sử dụng chứng cứ thu thập được, bởi nếu sử dụng chứng cứ đó sẽ làm xấu đi tình trạng của thân chủ. Đó là trong trường hợp, bị can không thừa nhận tội lỗi, nhưng trong quá trình tìm hiểu vụ việc, luật sư phát hiện ra những chứng cứ buộc tội bị can, vì vậy, luật sư không có quyền đưa ra chứng cứ đó, bởi như vậy sẽ vi phạm đức đức nghề nghiệp, khi đó luật sư chỉ có thể từ chối bào chữa mà thôi. Giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự là phạm vi các tình tiết, các dấu hiệu cần và đủ phải chứng minh để khẳng định một người phạm tội hay không phạm tội; giới hạn chứng minh một người phạm tội cụ thể nào đó bao giờ cũng rộng hơn giới hạn chứng minh người đó không phạm tội. Để chứng minh một người phạm tội cơ quan tiến hành tố tụng, người bị hại và luật sư của người bị hại cần phải có đủ các chứng cứ để chứng minh là hành vi phạm tội của người phạm tội phải có đủ 4 yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm, còn để chứng minh người đó không phạm tội, bị can, bị cáo, người bào chữa cho bị can, bị cáo chỉ cần chứng minh là không có một trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm đó. Nói một cách khác, để buộc tội cần phải có nhiều chứng cứ, còn để gỡ tội có khi chỉ cần một chứng cứ

Ví dụ như: Bằng chứng ngoại phạm; theo giấy khai sinh, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; theo bệnh án, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

Trong trường hợp, những chứng cứ mà luật sư thu thập được về cơ bản là xác định giá trị buộc tội của các chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng dùng để chứng minh bị can, bị cáo phạm tội. Để bào chữa có hiệu quả, luật sư phải có ý kiện để phản biện (một phần hoặc toàn bộ) chứng cứ buộc tội đó, có những kiến nghị, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định khác nhau như điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút cáo trạng, thay đổi tội danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị nêu trong bản luận tội, để hội đồng xét xử cân nhắc khi định tội danh, quyết định hình phạt cho bị cáo.

Nói chung, tuỳ theo khách hàng là ai, bị can, bị cáo hay đương sự, luật sư sẽ có định hướng cho việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ khác nhau, nhưng bao giờ, khi đưa ra chứng cứ, luật sư cũng phải đảm bảo hướng có lợi nhất cho thân chủ – khách hàng của mình.

Sử dụng chứng cứ để phục vụ cho công việc là một trong những nhiệm vụ của Luật sư, nếu như đánh giá được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng thì việc sử dụng chứng cứ cũng vậy. Trước hết Luật sư sử dụng chứng cứ để làm căn cứ để đề xuất, kiến nghị với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, thực hiện một công việc nào đó hứng tới mục đích làm lợi cho thân chủ…Trong phiên toà, luật sư sử dụng chứng cứ để phản bác một phần hay toàn bộ quan điểm của bên đối lập, khẳng định quan điểm của mình, đề nghị Viện kiểm sát rút một phần hay toàn bộ truy tố, đề nghị Toà án áp dụng điều luật hoặc những biện pháp có tính chất tố tụng khác có lợi cho thân chủ của mình.

Trong quá trình hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư có quyền gặp gỡ trao đổi, đề xuất với cơ quan Toà án, Viện kiểm sát nhằm:

– Khắc phục những thiếu sót trong điều tra, truy tố;

– Đảm bảo tính khách quan của hoạt động tố tụng;

– Bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của thân chủ.

Luật sư trao đổi với Toà án và Viện kiểm sát những vấn đề về thủ tục tố tụng và chứng cứ của vụ án:

+ Về tố tụng: hồ sơ vụ án cần phải xem xét xem có đảm bảo đúng thủ tục tố tụng hình sự hay không; có việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không; có cần đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn ; nhập hoặc tách vụ án hay không.

+ Về chứng cứ: Đã có đủ chứng cứ để xét xử bị cáo chưa; nếu còn thiếu chứng cứ thì đó là chứng cứ quạn trọng hay không quan trọng đối với vụ án, có thể bổ sung tai phiên Tòa hay không; có đúng là bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội đã bị truy tố hay phạm một tội khác hoặc có người khác cùng phạm tội với bị cáo.

Khi thấy có vi phạm về thủ tục tố tụng, không đảm bảo về chứng cứ xét xử bị cáo thì Luật sư có thể gặp thẩm phán hoặc kiểm sát viên tại phòng làm việc của họ để trao đổi. Trong tường hợp cần cung cấp thêm chứng cứ thì Luật sư chủ động cung cấp thêm chứng cứ của vụ án và trao đổi với Toà án và Viện kiểm sát.

Những vấn đề cần trao đổi, đề xuất vớiToà án và Viện kiểm sát:

a-Trả hồ sơ điều tra bổ sung:

Trong trường hợp sau đây thì yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung:

– Khi thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ quan trọng, nếu cứ xét xử thì dẫn đến oan hoặc làm cho bị cáo phạm tội nặng hơn.

– Nếu bảo vệ cho người bị hại thì khi thấy có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội nặng hơn tội đã bị truy tố thì đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung thay đổi tội danh.

– Khi thấy có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho việc điều tra không chính xác ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của thân chủ.

b- Cần phải nhập, tách vụ án :

Khi thấy vụ án mà mình có trách nhiệm bảo vệ cho thân chủ nếu được nhập vào trong một vụ án khác hoặc cần tách ra để xét xử sau là phù hợp với quy địnhcủa pháp luật thì đề nghị với Viện Kiểm sát hoặc Toà án giải quyết.

c- Đề nghị triệu tập người làm chứng quan trọng đến phiên toà:

Qua nghiên cứu thấy người làm chứng quan trọng có lời khai buộc tội bị cáo, nhưng lời khai này có nhiều điểm chưa rõ hoặc có mâu thuân với chứng cứ khác trong vụ án. nếu người làm chứng này không có mặt trong phiên toà thì sự công bố lời khai của họ có thể ảnh hưởng đến sự thật của vụ án , không có lợi cho thân chủ. Vì vậy Luật sư phải đề nghị Toà án cho triệu tập người làm chứng này đến để xét hổi làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

d-Cần thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo (nếu bảo chữa cho bị can, bị cáo )

Trong trường hợp nếu thấy việc tạm giam bị can bị cáo là không có căn cứ như tạm giam bị can, bị cáo 15 tuôỉ phạm tội nghiêm trọng, tạm giam bị can, bị cáo 17 tuổi phạm tội nhgiêm trọng do vô ý hoặc bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, mắc bện nặng cần phải được chữa bệnh, việc tạm giam bị can, bị cáo không cần thiết nữa thì phải đề nghị với Toà án viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam trả tự do cho bị can, bị cáo. Nếu xét thấy cần thì đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay cho biện pháp tạm giam.

e- Trưng cầu giám định khi có nghi ngờ về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (nếu bảo chữa cho bị can, bị cáo ):

Trong trường hợp nghi ngờ bị can, bị cáo đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bện khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ thì đề nghị Viện kiểm sát hoặc Toà án ra quyết định trưng cầu giám định pháp y về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của họ.

Tóm lại, việc nắm vững những quy định về quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can bị cáo hay người bảo vệ cho các đương sự cùng với khả năng đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách khoa học và chuyên nghiệp, chính là “vũ khí” của Luật sư trong tham gia giải quyết vụ án hình sự. Vì rằng chứng cứ có một vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật của của vụ án nên hoạt động đánh giá và sử dụng chứng cứ có thể dẫn đến một quyết định “sống còn” đối với mỗi bị can, bị cáo hay những đương sự liên quan.

KẾT LUẬN

Nói đến vai trò của Luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, lợi ích hợp pháp cho khách hàng trong vụ án hình sự là nói tới những tác động, ảnh hưởng của Luật sư trong tiến trình tố tụng thông qua chức năng nghề nghiệp mà trong đó một hoạt động rất quan trọng là đánh giá và sử dụng chứng cứ, góp phần vào quá trình dân chủ hoá hoạt động tư pháp, tạo lập công bằng xã hội.

Thông qua hoạt động đánh giá và sử dụng chứng cứ – trong tổng thể các hoạt động nghề nghiệp của mình, luật sư không chỉ thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, của khách hàng mà còn bảo vệ pháp luật, công lý, phản ánh niềm tin của người dân vào những quyền cơ bản nhân phẩm và giá trị của con người. Chính vì thế, tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề “Kỹ năng của luật sư trong hoạt động đánh giá và sử dụng chứng cứ” có một ý nghĩa thiết thực rất lớn. Điều đó không chỉ đem lại một cái nhìn tổng thể về chứng cứ, về đánh giá và sử dụng chứng cứ trong vụ án hình sự, mà còn là một cách tiếp cận kỹ năng hành nghề của Luật sư, mà cụ thể là kỹ năng đánh giá và sử dụng chứng cứ. Không có một chuẩn mực nào cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư, nhưng một cái nhìn thấu đáo hơn vấn đề kỹ năng nghề nghiệp Luật sư trong hoạt động đánh giá và sử dụng chứng cứ phần sẽ giúp cho các Luật sư, những người tiến hành tố tụng và cũng như những người có cùng quan tâm vận dụng trong thực tiễn, để từ đó đem lại một hiệu quả hơn trong lĩnh vực tố tụng, mà cụ thể là giải quyết một vụ án hình sự.

Với những hiểu biết còn hạn chế, người viết mong được sự chia sẻ và trao đổi của mọi người, để cùng nhau có được một cái nhìn hoàn thiện hơn về vấn đề quan tâm.

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Tự thú là gì?

Tự thú là hành vi người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước

Giải đáp thắc mắc

Tự thú là gì?

Tự thú là hành vi người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Quy định về tự thú: Theo điểm h Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố

Xem chi tiết »

Tham ô số tiền lớn bao nhiêu thì bị tử hình

Theo quy định của pháp luật hiện hành, tội tham ô tài sản có thể bị áp dụng hình phạt tử hình khi số tiền tham ô đạt hoặc vượt quá 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc áp dụng hình phạt cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều

Xem chi tiết »

Thủ tục trưng cầu giám định pháp y tâm thần

Thủ tục trưng cầu giám định pháp y tâm thần theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: 1. Nộp đơn đề nghị trưng cầu giám định: Đơn đề nghị trưng cầu giám định phải ghi rõ: Tên, địa chỉ của người đề nghị giám định.

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!