1. Tội nhận hối lộ theo Điều 279 Bộ luật Hình sự  
             Theo quy định tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật Hình sự (BLHS), có thể thấy một số dấu hiệu của tội nhận hối lộ như sau:
1. Chủ thể của tội nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để nhận hối lộ. Như vậy, chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ. Người có chức vụ theo Điều 277 BLHS “là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Bên cạnh đó, những đối tượng cụ thể được coi là người có chức vụ, quyền hạn còn được xác định theo khoản 3 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 bao gồm: “a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”.
2.  Có sự thỏa thuận trước về việc đưa và nhận hối lộ (trực tiếp hoặc qua trung gian) giữa người đưa hối lộ và người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Người có chức vụ, quyền hạn đã đồng ý nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất đó mà không phụ thuộc vào việc trên thực tế đã có việc giao hay nhận hay chưa.
Hậu quả của hành vi nhận hối lộ không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tức là dù hậu quả chưa xảy ra thì hành vi của người phạm tội vẫn cấu thành tội phạm. Ví dụ trong trường hợp người có chức vụ, quyền hạn chủ động đòi hối lộ thì tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội tỏ rõ thái độ của mình và người đưa hối lộ chấp nhận đòi hỏi đó.
3. Hình thức của hối lộ có thể là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác (vàng, ngọc, ô tô, nhà đất …). Như vậy, trong khi Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc xác định hối lộ bao gồm lợi ích vật chất và phi vật chất thì quy định pháp luật của nước ta mới chỉ dừng lại ở đối tượng hối lộ là vật chất.
4. Để cấu thành tội phạm, giá trị lợi ích vật chất dùng để hối lộ tối thiểu phải là hai triệu đồng, trường hợp dưới 2 triệu đồng thì phải có thêm một trong những điều kiện như: Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội phạm tham nhũng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Mức hình phạt cao nhất của tội hối lộ được quy định tại khoản 4 Điều 279 là phạt tù hai mươi năm, chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên, khi áp dụng điểm a khoản 4 Điều 279 cần xem xét hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 như sau:
5. Khi áp dụng điểm a khoản 4 Điều 279 BLHS về tội nhận hối lộ và điểm a khoản 4 Điều 289 BLHS về tội đưa hối lộ cần chú ý:
5.1. Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với của hối lộ như sau:
a. Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng; b. Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng. c. Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên.
5.2. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 Mục 5 này như sau: a. Xử phạt tù từ mười lăm năm (đối với tội nhận hối lộ) hoặc từ mười ba năm (đối với tội đưa hối lộ) đến dưới hai mươi năm nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng (trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS); b. Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng; c. Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên.
5.3. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức án được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 Mục 5 này như sau: a. Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng; b. Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng trở lên.
5.4. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 5.1 và 5.3 Mục 5 này thì người phạm tội nhận hối lộ phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội nhận hối lộ đã nộp lại một phần đáng kể giá trị của hối lộ (hoặc người thân thích, ruột thịt… của người phạm tội đã nộp thay cho người phạm tội), thì có thể không xử phạt tử hình người phạm tội và tuỳ vào giá trị của hối lộ nộp lại mà có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn.
Được coi là đã nộp lại một phần đáng kể giá trị của hối lộ nếu: a. Giá trị của hối lộ đã nộp lại phải được ít nhất một phần hai giá trị của hối lộ đã nhận; b. Giá trị của hối lộ đã nộp lại phải được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá trị của hối lộ đã nhận, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội (hoặc người thân thích, ruột thịt… của người phạm tôi) đã thực hiện mọi biện pháp để nộp lại giá trị của hối lộ đã nhận (đã bán hết nhà ở, tài sản có giá trị; cố gắng vay, mượn… đến mức tối đa).
5.5. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 5.1 và 5.3 Mục 5 này thì người phạm tội đưa hối lộ phải bị xử phạt tử hình, nhưng người đưa hối lộ bị ép buộc hoặc không bị ép buộc mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được xử lý theo quy định tại khoản 6 Điều 289 BLHS.
6. Cần chú ý là trường hợp được hướng dẫn tại Mục 2 Nghị quyết này là trường hợp không gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; các trường hợp được hướng dẫn tại các mục 4 và 5 Nghị quyết này là các trường hợp không gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) hoặc trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác (đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ) thì phân biệt như sau:
6.1. Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị của hối lộ thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các mục 2, 4 và 5 Nghị quyết này, thì phải áp dụng cả hai điểm a và b khoản 4 Điều luật tương ứng. Để xử phạt người phạm tội mức án tương xứng với hành vi phạm tội và hậu quả, thì ngoài việc thực hiện theo hướng dẫn tại các mục 2, 4 và 5 Nghị quyết này cần xem xét đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do tội phạm gây ra.
6.2. Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị của hối lộ dưới mức tối thiểu được hướng dẫn tại các mục 2, 4 và 5 Nghị quyết này thì chỉ áp dụng điểm b khoản 4 Điều luật tương ứng và xử phạt người phạm tội mức án tương xứng với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do tội phạm gây ra”.
2. Thực tiễn xét xử theo Điều 279 Bộ luật Hình sự những năm gần đây
            Tình hình tham nhũng, nhận hối lộ hiện nay ở nước ta đang diễn ra hết sức phức tạp. Mức độ tham nhũng, nhận hối lộ nặng nề đang được lý giải từ sự yếu kém của thể chế, tính nửa vời trong chỉ đạo thực hiện và sự thoái hóa của không ít quan chức, công chức trong bộ máy, thậm chí tham nhũng, nhận hối lộ có cả trong hoạt động tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. 
Hiện nay, có loại tham nhũng, nhận hối lộ nhỏ, vặt vãnh. Thủ đoạn của kiểu tham nhũng, nhận hối lộ này là cố ý làm phức tạp hóa những việc đơn giản, lợi dụng những quy định rườm rà để hành dân. Có loại tham nhũng, nhận hối lộ lớn trong tìm kiếm việc làm, thuyên chuyển, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Càng ở cấp cao, vị trí có khả năng sinh lợi nhiều thì mức độ tham nhũng, nhận hối lộ càng lớn. Có loại tham nhũng, nhận hối lộ cực lớn, tham nhũng, nhận hối lộ theo nhóm, gọi là lợi ích nhóm. Đây là dạng tham nhũng, nhận hối lộ có tổ chức, có chủ mưu. Loại tham nhũng, nhận hối lộ này thường xảy ra trong các dự án, đấu thầu, các hợp đồng kinh tế, đất đai, tài chính – ngân hàng, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, mở mang khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ giáo dục, y tế, khoa học – công nghệ, các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế. Đất đai và thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, kinh doanh bất động sản chỉ là một trong những trường hợp, những tình huống nổi bật trong vô số những trường hợp, những tình huống tham nhũng, nhận hối lộ hiện nay.
Thực tế còn cho thấy, ở nhiều nơi đã từng diễn ra tình trạng chạy chức, chạy quyền. Còn có các kiểu “chạy” khác nữa, từ nhỏ đến lớn và rất lớn, đó là chạy trường, chạy lớp, cho đến chạy dự án và chạy án. Đây mới là tiêu điểm của những nhức nhối, bức xúc trong vòng xoáy của tiền bạc và quyền lực, trong những mua bán, đổi chác, tội phạm và tệ nạn.
Tình trạng tham nhũng nói chung, nhận hối lộ nói riêng trong thời gian gần đây đã trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử lại cho thấy, từ năm 2009 đến năm 2013, số vụ án về các tội về tham nhũng được đưa ra xét xử sơ thẩm không tăng mà theo chiều hướng giảm đi. Số lượng vụ án về các tội về tham nhũng cao nhất vào năm 2009, với 299 vụ/714 bị cáo; thấp nhất vào năm 2011, với 220 vụ/485 bị cáo; tuy nhiên, đến năm 2012, số lượng vụ án về các tội về tham nhũng lại tăng lên, năm 2012 là 250 vụ/527 bị cáo, đến 2013 là 282 vụ/554 bị cáo. Năm 2009, có số vụ án ít nhất, 58 vụ án/111 bị cáo bị xét xử phúc thẩm, cao nhất vào năm 2013, với 174 vụ án/227 bị cáo.
Trong các tội phạm về tham nhũng, đối với tội nhận hối lộ, trong 5 năm đã xét xử sơ thẩm 106 vụ án/246 bị cáo, chiếm 8,1%% tổng số các vụ án về tham nhũng và 8,6% tổng số các bị cáo phạm tội về tham nhũng, xét xử theo thủ tục phúc thẩm 62 vụ án/129 bị cáo, chiếm 10,1% tổng số các bị cáo phạm tội về tham nhũng được xét xử phúc thẩm và 10,8% tổng số các bị cáo phạm tội về tham nhũng. Số lượng vụ án xét xử sơ thẩm cao nhất vào năm 2013 là 26 vụ/52 bị cáo, thấp nhất vào năm 2010 với 16 vụ án/212 bị cáo.
Một điều đặc biệt là, số các vụ bị xét xử vì tội nhận hối lộ qua các năm có xu hướng “ổn định”, dù rằng bằng cảm quan, người dân có thể nhận thấy hiện tượng đưa hối lộ, môi giới hối lộ và nhận hối lộ diễn ra ngày càng phổ biến hơn, ngày càng trắng trợn hơn. Xin tham khảo các số liệu từ việc thống kê kết quả điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao:
Tội nhận hối lộ:
Năm
Số vụ
Bị can
2009
12
37
2010
30
82
2011
17
73
2012
26
65
2013
26
60
2014
26
65
            Theo thống kê này, các vụ bị xét xử vì tội nhận hối lộ các năm 2012, 2013, 2014 gần như bằng nhau, cả về số vụ và số lượng bị can. Đây là một thực trạng phi lý, vì sẽ không bao giờ có “sự ổn định” của một loại tội phạm theo thời gian, như là việc thực hiện ổn định một kế hoạch có trước. Đồng thời, số vụ án về các tội về tham nhũng được đưa ra xét xử sơ thẩm không tăng mà lại theo chiều hướng giảm đi. Thực tế này có phải do“tình trạng pháp luật có, pháp chế cũng có nhưng pháp trị thì không hoặc yếu kém và hình thức”?
3. Những bất cập trong việc ngăn chặn, phát hiện và xửlý hành vi tham nhũng, hối lộ  
3.1.Bất cập trong quá trình phát hiện và xử lý tội nhận hối lộ
Chúng ta đều biết, đặc trưng cơ bản của hành vi tham nhũng, hối lộ là chỉ xảy ra ở đối tượng có chức, có quyền. Nhưng trong quá trình chống tham nhũng, hối lộ chúng ta mới mạnh về hô hào chứ chưa mạnh về biện pháp, bước đi, cách làm cụ thể. Thậm chí, còn có trình trạng áp dụng đấu tranh không đúng đối tượng, khiến dư luận xã hội cho rằng việc chống tham nhũng chỉ là hình thức “cưỡi ngựa xem hoa”. Ví dụ, trong Luật Phòng, chống tham nhũng, việc quy định các đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải kê khai tài sản khi làm ứng cử viên là chưa đúng đối tượng, bởi vì đa số các đại biểu không phải là người có chức, có quyền, không có cơ hội để tham nhũng, hối lộ.
Trong công tác phát hiện và xử lý tội phạm của tội nhận hối lộ, chúng ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém do thái độ không nghiêm túc và thiếu kiên quyết khi đối tượng nhận hối lộ là những cán bộ, đảng viên, thậm chí là cấp trên trực tiếp. Do đó, việc phát hiện các vụ việc đưa hối lộ, môi giới hối lộ và nhận hối lộ trở nên ít ỏi trong số các vụ việc về tham nhũng. Sự hạn chế trong công tác phát hiện xử lý tội phạm làm cho tội phạm coi thường pháp luật; không phát huy được tác dụng trừng trị, ngăn chặn, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
Mức hình phạt được quy định trong BLHS hiện nay cũng chưa thật sự chặt chẽ và chưa hợp lý. Khi áp dụng BLHS, nhìn chung còn hai khuynh hướng xử lý: xử quá nhẹ và xử quá nặng, nhưng khuynh hướng xử phạt nhẹ hơn so với tội đang có vẻ chủ đạo. Không ít trường hợp, một vụ án nhận hối lộ có tính chất nghiêm trọng, lẽ ra phải áp dụng hình phạt nặng theo đúng trách nhiệm hình sự, song kẻ phạm tội lại được áp dụng hình phạt nhẹ hơn, không tương xứng với hành vi phạm tội. Nhiều vụ án, lẽ ra xét tính nguy hiểm của hành vi, theo yêu cầu của luật thì phạt tù giam, nhưng Tòa án lại cho hưởng án treo, hoặc đáng lẽ phải chịu 10 năm tù thì lại xử chỉ còn 5 năm hay 7 năm. Nhiều vụ án có đủ những tình tiết để truy cứu trách nhiệm hình sự thì chỉ bị xử phạt hành chính. Nhiều nơi đã cố tình chia nhỏ vụ án lớn ra thành nhiều vụ án nhỏ nhằm giảm trách nhiệm cho bị can, áp dụng hình phạt nhẹ hơn, hoặc khắc phục hậu quả bồi thường một ít thì có thể miễn truy tố trước pháp luật…
Thực tế này dẫn đến trình trạng người dân mất lòng tin vì xử lý không nghiêm minh, không công bằng. Nhiều vụ tham nhũng, hối lộ bị phanh phui nhưng việc xử lý chưa đi tới cùng, chỉ cảnh cáo, nhắc nhở vì thiếu tinh thần trách nhiệm thôi thì chưa đủ, vì đối tượng tham nhũng, hối lộ là những người có chức quyền, nếu không trừng trị thẳng tay họ sẽ như “con bệnh nhờn thuốc”.
Những bất cập, thiếu sót của cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh với các tội tham nhũng, hối lộ hiệu quả còn thấp và gặp nhiều khó khăn, do các cơ quan bảo vệ pháp luật còn những hạn chế sau:
– Sự phối hợp giữa cơ quan bảo vệ pháp luật với nhau (cùng ngành nhưng khác cấp, cùng cấp nhưng khác ngành) và với cơ quan tổ chức khác còn thiếu chặt chẽ;
– Tinh thần quyết tâm đấu tranh với tham nhũng của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa cao;
– Cán bộ còn thiếu về số lượng và yếu về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm tham nhũng, hối lộ. Tình trạng phổ biến là thiếu cán bộ được đào tạo có hệ thống pháp lý, trình độ năng lực của một số Thanh tra viên, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán lại không đáp ứng được nhu cầu hiện nay
– Điều kiện vật chất còn thiếu thốn, lạc hậu. Hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật như Thanh tra, Kiểm sát, Tòa án gặp nhiều khó khăn về phương tiện hoạt động, nhất là ở cấp cơ sở quận, huyện, thị xã..
– Việc hướng dẫn, giải thích pháp luật để xác định đúng các tội danh vi phạm pháp luật cũng chưa thống nhất, thiếu sự hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền nên các ngành, các địa phương gặp nhiều lúng túng trong việc xác định tội danh và hình thức xử lý.
– Trong quá trình xử lý tội phạm tham nhũng, hối lộ vẫn còn có sự can thiệp, bao che của một số cơ quan, cá nhân.
– Giữa các cơ quan nội chính còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu, do đó thời gian giải quyết kéo dài, chậm trễ, vẫn còn tình trạng phổ biến là hồ sơ trả đi trả lại, có những vụ Công an bắt rồi hồ sơ mới chuyển qua Viện Kiểm sát.
– Do buông lỏng công tác thanh tra cho nên nhiều hành vi tham nhũng xảy ra không được phát hiện kịp thời, hoặc tuy có phát hiện nhưng vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có hiện tượng bao che, nên tham nhũng bị bỏ qua hoặc chỉ bị xử lý kỷ luật, trong số này có không ít hành vi tham nhũng, hối lộ đã cấu thành tội phạm.
– Một số biện pháp phòng, chống tham nhũng đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện và đánh giá tốt, nhưng vẫn chưa được áp dụng ở Việt Nam (trách nhiệm giải trình, xử lý đơn tố cáo nặc danh, áp dụng kỹ thuật điều tra đặc biệt, cách ly đối tượng có dấu hiệu tham nhũng để hạn chế khả năng đối phó, xử lý hành vi làm giàu bất hợp pháp, xử lý trách nhiệm của pháp nhân…).
3.2. Nhũng bất cập trong thực hiện cơ chế kinh tế
Công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, như tăng trưởng kinh tế liên tục với tốc độ tương đối cao, đưa đất nước ta thoát khỏi nạn lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đã xảy ra hàng loạt những biến động xấu về kinh tế – xã hội làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống chính trị – xã hội, văn hóa… cũng làm cho tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, đặc biệt các tội về tham nhũng, hối lộ. Sở dĩ tham nhũng, hối lộ có điều kiện phát triển và gia tăng đáng kể là do nguyên nhân khách quan chủ yếu sau:
– Nền kinh tế bị mất cân đối nặng, chưa thoát khỏi hậu quả của chiến tranh; nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng cần phải giải quyết cấp bách nhưng bị kéo dài và ngày càng phức tạp; nạn thiếu việc làm ngày càng gia tăng; kết cấu hạ tầng cho sản xuất và sinh hoạt còn yếu kém, chưa đồng bộ ở các vùng như vùng sâu, vùng xa, vùng cao; hiện tượng mất dân chủ, vi phạm trật tự kỷ cương ngày càng gia tăng…
– Cơ chế quản lý mới chưa được hình thành một cách đồng bộ, đặc biệt là vấn đề phân phối thu nhập giữa những người lao động, giữa cơ sở này với cơ sở khác, giữa ngành này với ngành khác, giữa trung ương với địa phương có sự chênh lệch quá mức. Có những ngành có mức thu nhập quá cao trong khi có những ngành có mức thu nhập lại quá thấp. Thu nhập của người lao động cũng rất khác nhau. Người có chức vụ thu nhập cao hơn nhân viên, người lao động ở các ngành nghề, các thành phần kinh tế, vùng, miền và các tỉnh, thành phố khác nhau thì cũng có thu nhập khác nhau. Sự bất hợp lý trong việc phân phối thu nhập cũng đã tạo điều kiện cho những kẻ cơ hội nhận hối lộ, tham ô, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của nhân dân…
– Trong công tác chỉ đạo thực hiện các biện pháp kinh tế – xã hội, chúng ta còn lúng túng trong giai đoạn chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Khi cơ chế quản lý mới chưa kịp hoàn thiện, còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, sơ hở, hệ thống chính sách pháp luật, các công cụ quản lý kinh tế- xã hội cần thiết lại chưa được xây dựng đầy đủ, còn nhiều chồng chéo, thiếu đồng bộ đã làm cho tham nhũng, hối lộ có điều kiện phát sinh.
– Hệ thống pháp luật còn nhiều khe hở, thiếu sót, chưa chặt chẽ, nhiều chính sách đã ban hành nhưng việc thể chế hoá thành luật lại quá chậm chạp, có khi trong cùng một điều luật lại có trình trạng mâu thuẫn nên đã gây khó khăn cho việc áp dụng để xử lý các hành vi phạm tội.
3.3 Những bất cập trong công tác tổ chức cán bộ
Mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho các tàn dư của chế độ xã hội cũ sống lại và phát triển khá nhanh chóng, trước hết là tâm lý tư hữu, thói tham lam, ích kỷ, tham vọng làm giàu nhanh bằng mọi giá ở một bộ phận cán bộ, công chức. Những cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất đã lợi dụng, sử dụng quyền lực nhà nước không vì thực thi công vụ mà vì mưu cầu lợi ích cá nhân, đã vơ vét tiền và tài sản của người khác. Từ thực tiễn xét xử một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng trong thời gian qua, có thể thấy những nguyên nhân dẫn đến hành vi tham nhũng có tổ chức, kéo dài trong nhiều năm mới bị phanh phui và xử lý:
– Một là, tự phê bình và phê bình trong nội bộ cơ quan, tổ chức có vụ việc tham nhũng, tiêu cực rất yếu, thậm chí bị tê liệt. Những kẻ tham nhũng, tiêu cực không còn gương mẫu, bị tha hóa, suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, chạy theo chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, nên không còn ý thức tự phê bình và phê bình. Đôi khi những quan tham có chức, có quyền lợi dụng phê bình để ca tụng nhau, quy kết người có tinh thần đấu tranh, mạnh dạn phê bình những vụ việc tham nhũng, tiêu cực là bất mãn, phá rối đoàn kết nội bộ và tìm cách triệt hạ người đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trước.
Điều đáng lo ngại là công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức ở những cơ quan, đơn vị có tham nhũng, tiêu cực không được chú trọng, còn mang tính hình thức; việc nắm bắt tư tưởng của cán bộ, đảng viên, công chức của tổ chức đảng, chính quyền không được coi trọng; việc xét thi đua, khen thưởng về chuyên môn, đoàn thể hàng năm mang tính hình thức, không bảo đảm chất lượng, còn chạy theo thành tích nhiều; cấp trên còn nể nang, thiếu trách nhiệm… nên tổ chức đảng, đảng viên, cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý có khuyết điểm, vi phạm, kể cả vi phạm nghiêm trọng vẫn được xét công nhận đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh trong nhiều năm, thậm chí còn được khen thưởng.
– Hai là, các cơ quan, đơn vị đa số đều do một người vừa làm bí thư cấp ủy, vừa làm thủ trưởng cơ quan. Như vậy, nếu có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì đều dễ bị ém đi, tinh thần đấu tranh bị vô hiệu hóa, bị tê liệt. Kẻ tham nhũng, hối lộ là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền sẽ tìm mọi cách vô hiệu hóa vai trò của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong cơ quan, đơn vị, biến các tổ chức này thành bình phong để tự tung, tự tác, thậm chí, còn vô hiệu hóa cả cấp trên của mình
– Ba là, công tác tổ chức cán bộ còn có sơ hở, bất cập cả về cơ chế, chính sách, cả về tổ chức thực hiện. Do vậy, không quản lý chặt chẽ, không nắm chắc tình hình cán bộ về năng lực, trình độ thực tế, về ưu điểm, khuyết điểm, về công tác, sinh hoạt, nơi cư trú, về đạo đức, lối sống… nên để những kẻ cơ hội, thực dụng, tha hóa, tham nhũng chui được vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị. Tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy bằng cấp” vẫn còn xảy ra, khiến các “quan tham” có cơ hội chui sâu, leo cao vào các chức vụ quan trọng hơn ở các vị trí quản lý và phân bổ các nguồn lực quốc gia để tiếp tục tham nhũng, nhận hối lộ ngày càng lớn hơn.
 Cơ chế về từ chức, thay thế, kỷ luật, cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với cán bộ có vi phạm (kể cả người trực tiếp vi phạm và người chịu trách nhiệm liên đới) chưa rõ ràng, cụ thể và đầy đủ, nên còn gặp khó khăn, lúng túng trong việc xử lý khi có vụ việc tham nhũng, tiêu cực xảy ra.
3.4. Những bất cập trong công tác thanh tra, giám sát
 Trong lĩnh vực thanh tra, giám sát, trong mỗi cơ quan luôn có tổ chức đảng, công đoàn, thanh tra nhân dân; ngoài ra còn có Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, chính trị – xã hội thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội. Nhưng vì những lý do khác nhau nên hiệu lực giám sát của các thiết chế, tổ chức này còn nhiều hạn chế.
Có một thực tế là ở những cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, hối lộ thường mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, nên tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên, công chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”, dẫn đến tình trạng quyền làm chủ của quần chúng bị triệt tiêu, bị người đứng đầu hoặc một số ít người thâu tóm, điều phối. Vì vậy, dân chủ bị vi phạm nghiêm trọng, tham nhũng từ đó ít bị phát hiện, không bị xử lý. Đã có nhiều trường hợp, quần chúng phát hiện có dấu hiệu tham nhũng, hối lộ, tham ô… nên đã dũng cảm đứng lên tố cáo, nhưng đơn thư của họ lại được trả về nơi bị tố cáo để giải quyết và họ trở thành nạn nhân của sự trù dập
4Đề xuất hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về tội nhận hối lộ
Chúng tôi xin nêu một số đề xuất sửa đổi các quy định hiện hành của BLHS đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và phù hợp với yêu cầu của Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc.
Thứ nhất, nghiên cứu để sửa đổi khái niệm người có chức vụ, quyền hạn quy định tại Điều 277 BLHS đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu mở rộng chủ thể của tội phạm tham nhũng, hối lộ đối với người nước ngoài và mở rộng sang lĩnh vực tư. Như trình bày, BLHS hiện hành quy định chủ thể của tội nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn, là các cán bộ, công chức của Nhà nước hay những người khác được giao thực hiện công vụ, đại diện cho quyền lực công. Điều này có nghĩa, đối tượng hối lộ gồm những người có quyền hạn, ảnh hưởng nhất định trong lĩnh vực công quyền của quốc gia. Trong khi đó, các Điều 15, 16, 21 của Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc thể hiện đối tượng được hối lộ gồm: công chức quốc gia; công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công; người điều hành hay làm việc – ở bất kỳ cương vị nào – cho tổ chức thuộc khu vực tư.
Như vậy, cần điều chỉnh khái niệm “người có chức vụ, quyền hạn” trong BLHS hiện hành theo hướng không chỉ gắn với việc bầu, bổ nhiệm mà còn gắn với “vị trí công tác” của chủ thể. Nói cách khác, có thể thay khái niệm “người có chức vụ, quyền hạn” bằng khái niệm: “người có được những quyền hạn do có được vị trí công tác” (có thể cả vị trí công tác trong lĩnh vực công và lĩnh vực tư). Nếu theo hướng này, thì không cần thiết phải bổ sung thêm các tội phạm tham ô, hối lộ trong lĩnh vực tư nữa.
Thứ hai, xác định tính chất của tội đưa hối lộ là một tội phạm về tham nhũng và xếp tội phạm này ngay sau tội nhận hối lộ để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của các quy định về hai tội phạm này.
Thứ ba, nghiên cứu đề xuất bỏ tội môi giới hối lộ, vì trong thực tiễn rất khó phân biệt trường hợp nào người môi giới chủ động và trường hợp nào người môi giới làm theo sự chỉ đạo của người khác. Kinh nghiệm các nước cho thấy, có rất ít quốc gia quy định hành vi môi giới thành tội độc lập mà chỉ nên coi là người giúp sức trong một vụ đồng phạm về tội đưa hối lộ và tội nhận hối lộ. Quy định theo hướng này sẽ đáp ứng tốt hơn khuyến nghị của các công ước quốc tế.
 Thứ tư, quy định tội nhận và đưa hối lộ theo hướng mô tả rõ hành vi phạm tội phù hợp với tinh thần của Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc cũng như hài hòa với quy định của luật hình sự nhiều quốc gia trên thế giới. Cụ thể, tội nhận hối lộ sẽ được quy định là hành vi nhận hoặc chấp nhận lời mời hoặc đòi hỏi người khác đưa lợi ích không chính đáng dưới bất kỳ hình thức nào, cho mình hoặc cho bất kỳ người nào khác; tội đưa hối lộ là hành vi đưa hoặc mời nhận hoặc chấp nhận đòi hỏi đưa lợi ích không chính đáng dưới bất kỳ hình thức nào…
 Thứ năm, mở rộng phạm vi khái niệm “của hối lộ” tới những loại giá trị phi vật chất. Thực tiễn tổng kết thi hành BLHS cho thấy, để đạt được mục đích của mình, người “đưa hối lộ” có khi không dùng tiền hoặc các lợi ích vật chất như trong BLHS hiện hành quy định mà còn sử dụng những hình thức tác động khác về tinh thần như: hối lộ tình dục hoặc các hình thức tạo điều kiện để thăng tiến… Trong một xã hội hiện đại, các hành vi này sẽ càng nhiều.
Do đó, nên mở rộng khái niệm của hối lộ thành: các lợi ích vật chất, hay các hình thức hối lộ khác về tinh thần, miễn sao để chủ thể làm hoặc không làm một việc có lợi cho người đưa “của hối lộ”. Nghiên cứu hình sự hóa một số hành vi theo tinh thần Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc. Phương án này chỉ đặt ra khi không sửa đổi khái niệm người có chức vụ, quyền hạn như trình bày ở trên. Trong trường hợp này, cần nghiên cứu để hình sự hóa một số hành vi sau:
– Hình sự hóa hành vi hối lộ công chức nước ngoài và công chức quốc tế hiện nay. Việc áp dụng các điều luật hiện hành để truy cứu TNHS đối với trường hợp hối lộ công chức nước ngoài đang gặp các trở ngại về cơ sở pháp lý: một là, Điều 289 quy định về tội đưa hối lộ nhưng không nêu rõ những đối tượng được đưa hối lộ; hai là, Điều 279 quy định người nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn, trong khi khái niệm người có chức vụ, quyền hạn vẫn được hiểu là chỉ bao gồm cán bộ, công chức Việt Nam và chỉ giới hạn trong phạm vi các cơ quan, tổ chức của Việt Nam. Trong khi đó, cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành một văn bản nào hướng dẫn việc áp dụng luật trong trường hợp này. Do đó, hành vi hối lộ công chức nước ngoài dễ bị hiểu lầm về tính chất pháp lý. Nói một cách khác, hành vi này thường được cho là không có tội theo luật hình sự Việt Nam.
Thực tế đó cùng với yêu cầu của Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc chính là những cơ sở quan trọng cho việc kiến nghị hình sự hóa hành vi hối lộ công chức nước ngoài trong luật hình sự Việt Nam. Điều đó vừa có ý nghĩa khẳng định về mặt pháp lý sự tồn tại của loại tội phạm này trong luật, vừa phù hợp với xu thế lập pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, quy định đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đấu tranh ở bình diện quốc tế với hình thức hối lộ đang trở nên gia tăng này. Quy định tội hối lộ công chức nước ngoài còn đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế và quan trọng là phù hợp với tinh thần của Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc. Về hình thức quy định hành vi hối lộ công chức nước ngoài, tổ chức OECD gợi ý rằng các quốc gia có thể quy định một tội phạm hoàn toàn mới trong BLHS hoặc trong một văn bản luật hình sự, hoặc có thể xây dựng riêng một luật về loại tội phạm này. Những hình thức lập pháp này đều có ý nghĩa khẳng định sự khác biệt của loại tội phạm hối lộ.
– Hình sự hóa hành vi hối lộ trong khu vực tư. Theo quy định hiện hành của luật hình sự Việt Nam, các tội phạm về hối lộ chỉ cấu thành trong những trường hợp hành vi hối lộ nhằm tới đối tượng là những người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực công hoặc hành vi được thực hiện bởi những chủ thể đặc biệt này. Quy định đó hiện nay đã trở nên thiếu thực tế bởi hoạt động hối lộ còn diễn ra trong khu vực tư và hoàn toàn có khả năng thực hiện bởi các chủ thể hoạt động trong khu vực tư. Nên quy định thêm tội hối lộ trong khu vực tư với các hành vi tương tự như các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ trong BLHS hiện hành. Vấn đề này cũng đã được khuyến nghị trong các công ước quốc tế và được luật hình sự ở nhiều quốc gia quy định. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước quốc tế chống tham nhũng của Liên hợp quốc và Công ước này khuyến nghị các quốc gia thành viên tội phạm hoá các hành vi tham nhũng trong khu vực tư. Như đã đề cập ở trên, quan điểm cần tội phạm hoá các hành vi hối lộ trong khu vực tư đã khá thống nhất. Vai trò kinh tế của khu vực tư ngày càng trở nên quan trọng và việc sử dụng pháp luật hình sự bảo vệ một số giá trị có ý nghĩa đối với sự phát triển của khu vực này là cần thiết. Nhiều ý kiến đều cho rằng, tính liêm chính của viên chức trong khu vực tư cũng cần được xem là quan trọng và cần được bảo vệ. Việc hình sự hoá hành vi hối lộ trong khu vực tư còn có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của người sử dụng lao động trong khu vực này.
Căn cứ vào hình thức lỗi thì luật hình sự Việt Nam nên quy định những tội danh riêng cho các hành vi hối lộ trong khu vực tư, vì: hình thức hối lộ này có những đặc điểm riêng, do đó dấu hiệu pháp lý cũng khác với các tội phạm về hối lộ trong khu vực công; tính nguy hiểm cho xã hội của hối lộ trong khu vực tư khác so với hối lộ trong khu vực công nếu đặt trong hoàn cảnh kinh tế – xã hội của Việt Nam, do đó hình phạt được quy định đối với các tội về hối lộ trong khu vực tư sẽ không giống như hình phạt đối với các tội phạm về hối lộ trong khu vực công. Việc quy định bổ sung các tội phạm về hối lộ trong khu vực tư cũng đồng nghĩa với việc xác định những điểm khác biệt của hình thức hối lộ này so với hối lộ trong khu vực công.
– Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân liên quan đến hành vi hối lộ. Trước hết cần thống nhất về nhận thức rằng, việc xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân không phải nhằm triệt tiêu pháp nhân vì pháp nhân còn liên quan đến đời sống của nhiều người, do đó trong chính sách xử lý cần tính toán sao cho vừa đủ để vừa trừng trị hành vi vi phạm, nhưng lại vẫn để pháp nhân tồn tại, phát triển và không tiếp tục tái phạm. Việc quy định TNHS của pháp nhân trong mối liên hệ với các tội phạm hối lộ trước hết phải trên cơ sở quy định TNHS chung của pháp nhân. Nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước cho thấy, xu thế quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân ngày càng nhiều. Do đó, việc nghiên cứu để hình sự hóa TNHS của pháp nhân là cần thiết. Cụ thể:
a) Về điều kiện truy cứu TNHS đối với pháp nhân. Không phải pháp nhân nào cũng có thể bị truy cứu TNHS, mà chỉ với những điều kiện sau đây: (i) pháp nhân chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp cá nhân là thành viên pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội nhân danh pháp nhân (đại diện của pháp nhân hoặc đại diện theo ủy quyền); (ii) pháp nhân chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp cá nhân thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích của pháp nhân; (iii) pháp nhân chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp cá nhân thực hiện hành vi theo chủ trương hoặc có sự chỉ đạo từ pháp nhân, thoả mãn điều kiện của pháp nhân. Trong trường hợp này việc buộc pháp nhân phải chịu TNHS là hoàn toàn thoả đáng.
b) Về giới hạn loại pháp nhân phải chịu TNHS. Nghiên cứu pháp luật ở một số nước cho thấy, mỗi quốc gia đều có quy định riêng nhưng đều thống nhất ở một điểm là đều loại trừ trách nhiệm của Nhà nước. Ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng, TNHS đối với pháp nhân là một vấn đề mới, nên cần vận dụng một cách thận trọng. Do vậy, trước mắt chỉ nên giới hạn loại pháp nhân phải chịu TNHS là pháp nhân kinh tế.
Tuy nhiên, vì các quy định của BLHS hiện nay được thiết kế chủ yếu để xử lý TNHS của cá nhân, nên theo chúng tôi, để thuận tiện cho việc áp dụng, trước mắt chỉ nên quy định hai hình phạt đối với pháp nhân là phạt tiền và đình chỉ hoạt động, trong đó hình phạt tiền là cơ bản, hình phạt đình chỉ hoạt động là biện pháp cuối cùng và chỉ áp dụng đối với các “doanh nghiệp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”./.

Dịch vụ luật sư bào chữa tội nhận hối lộ

Sự tham gia của luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại,  nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên.

Bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công lý. Với suy nghĩ như vậy, chúng tôi luôn sẵn sàng với tinh thần trách nhiệm cao nhất để thực hiện các công việc sau:

1. Bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo) và người bị tố giác (tố cáo);

2. Bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã;

3. Bào chữa cho bị can, bị cáo trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại cơ quan tiến hành tố tụng các cấp;

4. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự;

5. Tư vấn, hỗ trợ thân chủ kháng cáo, đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.

Với trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, chúng tôi sẽ thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bào chữa, bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo và các đương sự khác trong vụ án hình sự..

Để thực hiện thủ tục tư vấn pháp luật hình sự qua email của công ty Luật Dragon, khách hàng thực hiện như sau:

Gửi câu hỏi của mình về email dịch vụ: dragonlawfirm@gmail.com

Nội dung email cần ghi rõ:

– Yêu cầu tư vấn pháp luật qua email có trả phí hoặc không có trả phí;

– Họ và tên người yêu cầu;

– Số điện thoại người yêu cầu;

– Nội dung câu hỏi cần tư vấn.

Khi sử dụng dịch vụ tư vấn qua email khách hàng sẽ nhận được những lợi ích sau:

– Ngay sau khi nhận được câu hỏi/yêu cầu từ phía khách hàng, các luật sư có đúng chuyên môn về lĩnh vực mà khách hàng đang vướng mắc sẽ nghiên cứu và giải đáp vướng mắc của khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả và đương nhiên sẽ chính xác, chất lượng nhất.

– Yêu cầu của khách hàng sẽ được luật sư tư vấn, hướng dẫn cụ thể, chi tiết. Nội dung tư vấn bao gồm đầy đủ cơ sở pháp lý, các quy định của pháp luật có liên quan.

– Luật Dragon cam kết sẽ giải quyết triệt để, rõ ràng, rành mạch các vấn đề pháp lý mà khách hàng yêu cầu, gắn liền với vụ việc thực tế mà khách hàng đang gặp.

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Tự thú là gì?

Tự thú là hành vi người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước

Giải đáp thắc mắc

Tự thú là gì?

Tự thú là hành vi người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Quy định về tự thú: Theo điểm h Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố

Xem chi tiết »

Tham ô số tiền lớn bao nhiêu thì bị tử hình

Theo quy định của pháp luật hiện hành, tội tham ô tài sản có thể bị áp dụng hình phạt tử hình khi số tiền tham ô đạt hoặc vượt quá 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc áp dụng hình phạt cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều

Xem chi tiết »

Thủ tục trưng cầu giám định pháp y tâm thần

Thủ tục trưng cầu giám định pháp y tâm thần theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: 1. Nộp đơn đề nghị trưng cầu giám định: Đơn đề nghị trưng cầu giám định phải ghi rõ: Tên, địa chỉ của người đề nghị giám định.

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!