Luật sư tư vấn kỹ năng giải quyết vụ án hình sự

310

Để giải quyết một vụ án hình sự thì tùy từng giai đoạn tố tụng, cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng ở các Tòa án đều phải thực hiện nhiều công việc như: nhận và thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ, các công việc cần làm trong thời hạn chuẩn bị, chuẩn bị các công việc để mở phiên tòa hình sự sơ thẩm, các công việc cần làm sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm… Ở mỗi giai đoạn tố tụng đều có những quy định, đặc điểm và tầm quan trọng riêng. Cụ thể như trong giai đoạn nhận và thụ lý hồ sơ vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bởi lẽ quá trình nhận và thụ lý vụ án hình sự được đầy đủ, chính xác, đảm bảo tuân thủ các điều kiện mà pháp luật quy định sẽ là tiền đề để thực hiện tốt các hoạt động tố tụng ở giai đoạn tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bên cạnh đó, một yếu tố tác động không nhỏ vào kết quả xét xử được chính xác, thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật đó là việc nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa và các vị Hội thẩm nhân dân. Bởi vì chỉ thông qua việc nghiên cứu hồ sơ mới biết được hồ sơ vụ án đã đầy đủ các tài liệu hay chưa, nếu phạm tội thì phạm tội gì được quy định trong Bộ luật hình sự, bản án hoặc quyết định của Tòa án các cấp có đúng pháp luật hay không, trên cơ sở nghiên cứu mới có căn cứ để có quyết định đưa vụ án ra xét xử hay không, trả lời đơn khiếu nại, tố cáo để hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng pháp luật, để kháng nghị hoặc trình Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán về kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm…

  1. THỤ LÝ VỤ ÁN HÌNH SỰ
  2. Nhận hồ sơ vụ án
VBQPPL:

– BLTTHS (khoản 1 và 3 Điều 166)

– Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP (tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I)

– Khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án, Thư ký cần kiểm tra số bút lục có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu bản kê tài liệu so với các tài liệu có trong hồ sơ xem đã đầy đủ hay chưa. Nếu chưa đầy đủ thì không nhận hồ sơ vụ án.

– Kiểm tra bản cáo trạng đã được giao cho bị can theo đúng quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 166 của BLTTHS hay chưa. Nếu bản cáo trạng chưa được giao cho bị can thì không nhận hồ sơ vụ án.

– Trường hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đầy đủ so với bản kê tài liệu và bản cáo trạng đã được giao cho bị can thì căn cứ vào hướng dẫn tại điểm A tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP quy định:

“1.1. Nhận hồ sơ vụ án và thụ lý vụ án.

Khi nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến, người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê tài liệu và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy đủ hay chưa; kiểm tra bản cáo trạng đã được giao cho bị can theo đúng quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 166 BLTTHS hay chưa và xử lý như sau:

  1. Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ so với bản kê tài liệu hoặc bản cáo trạng chưa được giao cho bị can, thì không nhận hồ sơ vụ án vì chưa đúng quy định của BLTTHS”.

Theo đó, Thư ký tiến hành nhận hồ sơ vụ án, lập biên bản giao nhận hồ sơ vụ án và lưu vào hồ sơ. Biên bản giao nhận hồ sơ vụ án cần có các nội dung chính sau: Thời gian giao nhận hồ sơ, địa điểm giao nhận, những người tiến hành giao nhận, thực hiện việc tiến hành giao nhận hồ sơ vụ án: tên bị can – loại hồ sơ vụ án (nếu có đồng phạm thì ghi thêm “và đồng phạm” sau tên của bị can đầu vụ), số bút lục có trong hồ sơ, lý do giao nhận hồ sơ, ngày giờ kết thúc việc giao nhận…

Lưu ý, khi kiểm tra các tài liệu có trong hồ sơ, Thư ký cần chú ý trong bản kê tài liệu thể hiện có các bản tài liệu gốc hay chỉ là các bản sao tài liệu để khi lập biên bản giao nhận hồ sơ vụ án cần ghi chú bản gốc cho chính xác.

Ví dụ: Trong hồ sơ vụ án tai nạn giao thông thường có bản chính giấy phép lái xe của bị can hoặc có khi chỉ là bản sao chụp giấy phép lái xe, thư ký cần lưu ý kiểm tra nếu là bản chính thì phải ghi rõ trong biên bản giao nhận hồ sơ vụ án là bản chính giấy phép lái xe của bị can.

Sau khi nhận được hồ sơ vụ án hình sự từ Viện kiểm sát chuyển sang, thì bộ phận nhận hồ sơ và thụ lý vụ án cấp huyện và cấp tỉnh là thư ký thường trực Tòa hình sự, cần kiểm tra danh mục tài liệu có trong hồ sơ, đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ, xem có đầy đủ các bút lục như đã được liệt kê hay không. Các lệnh tạm giam có còn hay đã hết thời hạn tạm giam, các thủ tục tố tụng như biên bản giao nhận Kết luận điều tra, biên bản giao nhận Cáo trạng đã có hay chưa? Có biên bản giao nhận vật chứng hay không?

  1. Thụ lý vụ án hình sự
VBQPPL:

–     BLTTHS (khoản 1 Điều 38)

–     Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP (tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I)

Tại điểm B tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP quy định:

“ 1.1. Nhận hồ sơ vụ án và thụ lý vụ án.

Khi nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến, người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê tài liệu và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy đủ hay chưa; kiểm tra bản cáo trạng đã được giao cho bị can theo đúng quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 166 BLTTHS hay chưa và xử lý như sau:

  1. Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ so với bản kê tài liệu và bản cáo trạng đã được giao cho bị can, thì nhận và vào ngay sổ thụ lý hồ sơ vụ án. Sau khi hồ sơ vụ án đã được thụ lý, Chánh án Tòa án phân công ngay Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa”.

– Theo đó, ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thư ký phải ghi vào sổ thụ lý hồ sơ gồm số thụ lý, ngày, tháng, năm thụ lý… theo mẫu sổ thụ lý hồ sơ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

Tiến hành lập bìa hồ sơ theo mẫu quy định sau đó chuyển hồ sơ cho Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa.

Nếu các thủ tục này đã được thực hiện đầy đủ thì vào sổ thụ lý, ghi đầy đủ số thụ lý, ngày thụ lý, tên các bị cáo, số ký hiệu, ngày của Cáo trạng truy tố. Sau khi đã thụ lý hồ sơ thì báo cáo chuyển hồ sơ cho Chánh án hoặc Phó chánh án được Chánh án ủy quyền để phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa[1].

  1. Giải quyết những tình huống phát sinh khi thụ lý hồ sơ vụ án hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS thì trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ban hành Cáo trạng, Viện kiểm sát phải thông báo và giao cho bị can, người bào chữa bản Cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án… do vậy, khi hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển sang, nếu chưa có biên bản giao nhận Cáo trạng thì không nhận hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp khi hồ sơ vụ án chuyển sang cho Tòa án nhưng chưa có biên bản giao nhận Cáo trạng, biên bản giao nhận vật chứng. Trong trường hợp này, Tòa án vẫn nhận hồ sơ vụ án nhưng chưa vào sổ thụ lý mà chỉ vào sổ để theo dõi và cần thông báo cho Viện kiểm sát biết trong thời hạn bao nhiêu ngày thì Viện kiểm sát phải hoàn thành việc giao bản Cáo trạng cho bị can, nếu hết thời hạn đã định mà Viện kiểm sát vẫn chưa chuyển biên bản giao nhận Cáo trạng thì trả lại hồ sơ[2]. Nếu khi chuyển hồ sơ sang Tòa án mà lệnh tạm giam của Viện kiểm sát đã hết và biên bản giao nhận Cáo trạng chưa có thì kiên quyết không nhận mà yêu cầu Viện kiểm sát phải ra lệnh tạm giam tiếp theo.

Đối với việc giao nhận vật chứng hiện cũng chưa có hướng dẫn cụ thể, tại điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS cũng chỉ quy định “… Đối với vật chứng đưa về cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan Thi hành án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án”.

Tuy nhiên, thực tế khi hồ sơ vụ án hình sự được chuyển sang Tòa án thì thường chưa có biên bản giao, nhận vật chứng. Bởi lẽ, tại điểm a mục 3 Thông tư số 06/2003/TT-BCA ngày 12/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn là: “Sau khi vụ án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì vật chứng, đồ vật, tài liệu khác của vụ án đang được bảo quản tại kho vật chứng của cơ quan Công an phải được chuyển sang kho vật chứng của cơ quan Thi hành án…”. Do vậy, chỉ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án thì cơ quan Công an mới chuyển vật chứng của vụ án sang cơ quan Thi hành án theo như quy định của BLTTHS. Hướng dẫn như vậy là không hợp lý vì Thông tư 06/2003/TT-BCA chỉ có giá trị trong ngành Công an chứ không thể buộc Viện kiểm sát và Tòa án phải tuân thủ theo, song hiện cũng chưa có hướng dẫn nào khác. Đây là tình trạng chung của Tòa án các tỉnh trong cả nước về vấn đề giao nhận vật chứng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay mà chưa có cách giải quyết thống nhất. Ví dụ như tại tỉnh Bắc Ninh đã có sự thống nhất tạm thời giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tỉnh Bắc Ninh là: khi có quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử thì Viện kiểm sát sẽ có Công văn yêu cầu cơ quan Điều tra chuyển vật chứng sang cơ quan Thi hành án và sẽ giao lại cho Tòa án biên bản giao, nhận vật chứng. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp xử lý tạm thời, về nguyên tắc phải kiên quyết yêu cầu Viện kiểm sát khi chuyển hồ sơ phải có đầy đủ cả biên bản giao, nhận vật chứng. Vì thực tế quá trình nghiên cứu hồ sơ có những trường hợp phải xem xét cả vật chứng mà không có biên bản giao, nhận thì không thể xem xét được, không bảo đảm quy định khi phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bởi lẽ, nếu đợi có quyết định đưa vụ án ra xét xử mới chuyển biên bản giao, nhận vật chứng, thì lại phải khai mạc phiên tòa rồi làm thủ tục hoãn phiên tòa, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, như vậy rất mất thời gian và không đúng trình tự tố tụng.

Nếu khi nhận hồ sơ vụ án mà trong hồ sơ thiếu một hoặc nhiều bút lục hoặc bút lục đánh số nhảy cóc mà trong bản thống kê tài liệu lưu trong hồ sơ vụ án không thể hiện điều này, thì cần phải thông báo cho Viện kiểm sát biết để Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan Điều tra làm công văn giải trình về việc thiếu bút lục hoặc bút lục đánh nhảy cóc.

  1. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ
  2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

1.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

– Mục đích: Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nhằm giúp cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nắm vững được nội dung vụ án, để từ đó có hướng giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn và chính xác nhất, trong đó người Thẩm phán phải xác định được:

+ Vụ án đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử hay chưa;

+ Có đúng thẩm quyền xét xử không;

+ Có cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;

+ Có căn cứ để áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn hay không;

+ Có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án hay không?

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cũng là cơ sở để Thẩm phán lên kế hoạch xét hỏi một cách chủ động nhất, chủ động giải quyết các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, định hình được nội dung của bản án cũng như làm các công việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.

– Yêu cầu: Trong hoạt động tố tụng hình sự thì các tình tiết trong vụ án luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để nắm được nội dung vụ án một cách chắc chắn cũng như chủ động trong quá trình xét xử đòi hỏi người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ thống và khoa học nhất toàn bộ các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra đã có trong hồ sơ. Trước hết, Thẩm phán cần nghiên cứu từng tài liệu riêng lẻ kết hợp so sánh chúng với các tài liệu, chứng cứ khác để tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Từ đó, tổng hợp lại để phát hiện sự hợp lý hoặc những điểm mâu thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ nhằm đánh giá sự tin cậy của các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập. Đây chính là cơ sở để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể ra một trong các quyết định được quy định tại Điều 176 BLTTHS như: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

– Nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự: Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phải làm sáng tỏ những vấn đề sau:

+ Vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình xét xử hay không?

+ Các thủ tục trong điều tra, truy tố đã đảm bảo đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật hay không?

+ Có cần thiết áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo (các bị cáo) hay không?

+ Hành vi của bị cáo (các bị cáo) có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm không; tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố có phù hợp không?

+ Có cần xử lý vật chứng hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm việc bồi thường thiệt hại trước khi xét xử không?

+ Có căn cứ để đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không?

1.2. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Có nhiều phương pháp để nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự. Việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu nào phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể và kinh nghiệm thực tiễn của từng Thẩm phán. Thông thường hiện có hai phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phổ biến nhất đó là:

Phương pháp thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án theo trình tự tố tụng tức là bắt đầu nghiên cứu từ các tài liệu tố tụng gồm:

+ Quyết định khởi tố vụ án;

+ Quyết định khởi tố bị can;

+ Các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát;

+ Các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn;

+ Kết luận điều tra;

+ Bản Cáo trạng…

Nghiên cứu theo phương pháp này có ưu điểm là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thái độ khách quan hơn, không bị chi phối và phụ thuộc vào quan điểm của cơ quan Điều tra và Cáo trạng của Viện kiểm sát, song lại có nhược điểm mất nhiều thời gian mới nắm vững được các tình tiết của vụ án cũng như quan điểm của cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát.

Phương pháp thứ hai: Là nghiên cứu hồ sơ không theo trình tự tố tụng, bắt đầu từ bản Cáo trạng rồi đến các tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án theo trình tự ngược lại về mặt thời gian để kiểm tra tính xác thực và đúng đắn của quyết định truy tố. Phương pháp này có ưu điểm về mặt thời gian song cũng có nhược điểm là nếu không cẩn thận Thẩm phán dễ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của cơ quan Điều tra cũng như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát dẫn đến có định kiến và hay áp đặt ý thức chủ quan vào việc giải quyết vụ án, kể cả việc định tội danh và quyết định hình phạt.

  1. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Sau khi nhận hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công xét xử vụ án hình sự và các Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử cần phải kiểm tra xem hồ sơ đã đảm bảo về thủ tục tố tụng và đủ số lượng bút lục theo danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ không, nếu phát hiện thiếu tài liệu nào thì phải kiểm tra để giải quyết ngay.

Khi nghiên cứu bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có trong hồ sơ cũng phải kiểm tra để đánh giá về tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chúng. Việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ về vụ án chỉ được tiến hành sau khi đã nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Thông thường khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự theo phương pháp nghiên cứu thứ hai cần tiến hành theo trình tự các nhóm tài liệu sau:

2.1. Nghiên cứu Cáo trạng

Như chúng ta đã biết Cáo trạng là cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ án. Vì vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân cần nghiên cứu kỹ bản Cáo trạng để nắm vững nội dung vụ án và xác định rõ giới hạn xét xử cụ thể là:

+ Các hành vi phạm tội cụ thể của từng bị cáo mà Viện kiểm sát đã xác định trong Cáo trạng (kể cả hành vi không truy tố).

+ Các chứng cứ mà Viện kiểm sát dùng làm căn cứ xác định tội phạm và người phạm tội.

+ Tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố các bị can.

+ Những tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị can.

+ Mức độ thiệt hại và yêu cầu cụ thể về bồi thường thiệt hại (nếu có).

2.2. Nghiên cứu kết luận điều tra

Sau khi nghiên cứu cáo trạng, cần nghiên cứu kết luận điều tra. Việc nghiên cứu kết luận điều tra và đối chiếu, so sánh với Cáo trạng giúp Thẩm phán nắm được diễn biến của hành vi phạm tội, các chứng cứ mà Cơ quan điều tra sử dụng để chứng minh tội phạm và người phạm tội, kết luận và đề nghị của cơ quan điều tra về hướng giải quyết vụ án. Cần so sánh những điểm khác nhau giữa Kết luận điều tra và bản Cáo trạng (về các hành vi phạm tội, diện truy tố, các tội danh, điều khoản áp dụng của Bộ luật hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng đối với từng bị can và lý do của sự khác nhau đó trong các vụ án có đồng phạm) để có hướng giải quyết các mâu thuẫn khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu khác.

2.3. Nghiên cứu các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng

Sau khi nghiên cứu Cáo trạng và Kết luận điều tra, chúng ta nghiên cứu đến các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng như: Biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người đại diện hợp pháp của bị can, người bị hại (nếu có), biên bản đối chất và các tài liệu khác.

Lưu ý, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự đối với các chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của một người nào đó, chúng ta cần phải chứng minh rõ những vấn đề quy định tại Điều 63 BLTTHS đó là:

Một là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

Hai là: Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

Ba là: Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

Bốn là: Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Theo quy định tại Điều 64 BLTTHS thì: chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo một trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng cứ được xác định bằng vật chứng; lời khai của những người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

Chính vì vậy khi nghiên cứu các chứng cứ này chúng ta cần phải nghiên cứu hết sức cẩn thận, theo một trình tự nhất định như sau:

Cần xác định lời khai của bị can là một trong những chứng cứ trực tiếp để xác định sự thật về vụ án. Việc nghiên cứu lời khai, bản tường trình của các bị can cần tiến hành theo trình tự thời gian lấy lời khai và cần xác định rõ những hành vi phạm tội nào nêu trong Cáo trạng mà bị can thừa nhận, hành vi nào mà bị can không thừa nhận và lý do của việc thừa nhận hay không thừa nhận hoặc thay đổi lời khai là gì; động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội; mức độ ăn năn hối hận và thái độ khai báo của bị can trong quá trình điều tra. Các lý lẽ, chứng cứ mà bị can đưa ra để bào chữa cho mình cũng như những điểm mâu thuẫn trong các lời khai của bị can.

2.4. Về giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can

Trong quá trình nghiên cứu lời khai của bị can, cần kiểm tra việc tuân thủ tố tụng của cơ quan điều tra khi lấy lời khai để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ như: Bị can có được giải thích đầy đủ về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 BLTTHS hay không (đặc biệt là quyền bào chữa của bị can trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội hoặc người phạm tội bị truy tố theo khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS)? Việc ký xác nhận của bị can có đúng quy định không? Việc sửa chữa, tẩy xóa biên bản hỏi cung bị can có chữ ký xác nhận của bị can hay không?

Ví dụ: Nghiên cứu và tham khảo luật của Mỹ thì thấy theo quy định tại Tu chính án thứ 5 trong Hiến pháp Mỹ đã khẳng định: Không người nào bị bắt buộc phải làm nhân chứng chống lại chính mình trong bất cứ vụ án hình sự nào. Người ta gọi nội dung trên là quy tắc Miranda. Theo quy tắc này thì trước khi thẩm vấn, nhân viên điều tra “Cảnh sát” phải đọc và giải thích cho bị can biết quyền lợi của họ bằng những câu sau:

  1. Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời. Anh có hiểu không?
  2. Bất cứ những gì anh nói đều có thể được sử dụng để chống lại anh trước tòa. Anh có hiểu không?
  3. Anh có quyền trao đổi với Luật sư trước khi trả lời cho cảnh sát và có quyền có Luật sư hiện diện trong quá trình thẩm vấn ngay từ bây giờ và sau này. Anh có hiểu không?
  4. Nếu anh không có khả năng thuê Luật sư thì anh sẽ được quyền yêu cầu tòa chỉ định Luật sư cho mình trước khi thẩm vấn. Anh có hiểu không?
  5. Nếu anh quyết định trả lời bây giờ mà không cần có Luật sư hiện diện thì anh có quyền ngừng trả lời vào bất cứ lúc nào cho tới lúc anh được nói chuyện với Luật sư. Anh có hiểu không?
  6. Bây giờ anh đã biết và hiểu được quyền lợi của anh như tôi đã giải thích cho anh, anh có sẵn sàng trả lời câu hỏi của tôi mà không có Luật sư hiện diện không?

Nếu Điều tra viên không đặt ra những câu hỏi nêu trên và không có biên bản ghi lại có chữ ký của người bị xét hỏi, là vi phạm và những lời khai của bị can cho dù đó là lời khai tự nguyện cũng bị Tòa án bác bỏ.

So sánh với quyền của bị can, bị cáo được quy định tại Điều 49, 50 BLTTHS thì thấy:

Qua thực tiễn xét xử nhận thấy, trong các biên bản ghi lời khai, có ghi việc giải thích quyền cho bị can biết theo Điều 49, nhưng thực chất việc giải thích của Điều tra viên như thế nào, có đầy đủ, để cho bị can hiểu và thực hiện quyền của mình hay không thì không thấy có văn bản nào thể hiện. Vậy việc ghi vài dòng tại biên bản ghi lời khai như vậy có bảo đảm tính khách quan hay không? Do đó, để bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS cần phải có quy định rằng việc giải thích quyền và nghĩa vụ của họ phải được lập thành biên bản và nêu đầy đủ nội dung quyền và nghĩa vụ.

2.5. Nghiên cứu lời khai của người làm chứng

Cần tiến hành nghiên cứu theo trình tự thời gian để xác định:

– Độ tin cậy, tính chính xác trong lời khai của người làm chứng và cần xác định họ khai về những tình tiết cụ thể nào trong vụ án và tại sao họ biết;

– Họ trực tiếp chứng kiến sự việc hay gián tiếp biết về vụ việc thông qua nguồn tin nào khác;

– Mối quan hệ giữa người làm chứng với người phạm tội và người bị hại;

– Điều kiện khách quan (không gian, thời gian, địa điểm) và điều kiện chủ quan (tinh thần, tuổi tác, nghề nghiệp, khả năng tiếp thu thông tin và nhận thức…) của người làm chứng khi tiếp nhận thông tin. Các điểm mâu thuẫn giữa các lời khai trước và lời khai sau của người làm chứng (để đối chiếu với các chứng cứ khác có trong vụ án). Nếu cần thiết, phải cho đối chất giữa người làm chứng và bị can, bị cáo hoặc thực nghiệm điều tra.

Ví dụ: Trong thực tiễn có nhiều vụ tai nạn giao thông, khi khám nghiệm hiện trường chữ ký trong biên bản không phải là của người có mặt từ đầu khi xảy ra tai nạn mà chỉ là những người ra sau, nhìn thấy hiện trường như vậy chứ không phải là người chứng kiến việc va chạm dẫn đến tai nạn, do vậy việc trình bày của họ với cơ quan Điều tra chỉ là theo cảm tính.

2.6. Nghiên cứu biên bản đối chất

Biên bản đối chất giữa các bị can với nhau, giữa bị can và người bị hại, giữa bị can và người làm chứng, giữa người bị hại và người làm chứng cũng hết sức quan trọng, giúp cho Thẩm phán có thêm cơ sở để đánh giá độ tin cậy trong các lời khai còn mâu thuẫn để từ đó xác định được chứng cứ nào là khách quan, chứng cứ nào là không khách quan. Trên cơ sở đó rút ra được những điểm đã thống nhất giữa những người đối chất và những điểm còn mâu thuẫn cần tiếp tục khắc phục bằng các chứng cứ tài liệu khác.

2.7. Nghiên cứu lời khai của người bị hại

Trong các vụ án hình sự, đa số người bị hại là người trực tiếp chứng kiến hành vi phạm tội. Do vậy, việc nghiên cứu lời khai của họ sẽ giúp cho Thẩm phán nắm vững được diễn biến của vụ án cũng như các hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và yêu cầu bồi thường của họ. Khi nghiên cứu lời khai của người bị hại, Thẩm phán cần nghiên cứu theo trình tự thời gian mà họ trình bày, xem có sự mâu thuẫn hay không, thái độ tâm lý, mối quan hệ của họ đối với người phạm tội như thế nào để có hướng giải quyết đúng đắn vụ án, tránh để lọt tội phạm hoặc gây oan sai.

2.8. Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị can, bị hại.

Việc nghiên cứu lời khai của những người tham gia tố tụng này cũng tương tự như nghiên cứu lời khai của người bị hại, song Thẩm phán cần xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của họ trong vụ án, các chứng cứ để xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ, để có cơ sở giải quyết các vấn đề liên quan đến việc bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án.

2.9. Nghiên cứu về tài liệu về nhân thân bị can

– Lý lịch bị can;

– Thông báo kết quả tra cứu (tàng thư);

– Các tài liệu về tiền án, tiền sự, giấy ra trại (nếu có);

– Bản sao giấy khai sinh hoặc tài liệu xác minh độ tuổi nếu bị can là người chưa thành niên;

– Giấy khai sinh của đứa trẻ hoặc giấy chứng nhận tình trạng thai nghén do cơ quan y tế cấp (nếu bị can là phụ nữ đang trong thời kỳ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi).

Nhân thân của bị can, người bị hại là một trong những căn cứ để xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Do vậy, trong từng vụ án cụ thể, nếu trong hồ sơ không có đủ các tài liệu này hoặc không có tài liệu phản ánh kết quả xác minh của cơ quan điều tra về những đặc điểm nhân thân của bị can, bị hại thì cần yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ.

Ví dụ 1: Bị can là người chưa thành niên, Luật hình sự nước nào cũng đều có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải nước nào cũng giống nhau mà phải tùy thuộc vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau như ở Anh Quốc là 08 tuổi, Hoa Kỳ là 07 tuổi, Thụy Điển là 15 tuổi, Nga là 14 tuổi, Cộng hòa Pháp 13 tuổi,… Ở Việt Nam là từ đủ 14 tuổi (Điều 12 BLHS). Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là hết sức quan trọng vì liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy khi tính tuổi phải tính theo tuổi tròn.

Ví dụ 2: Một người sinh ngày 1/1/1990 thì tới ngày 1/1/2004 mới đủ 14 tuổi và tới 1/1/2006 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp, không có đủ điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. Ví dụ chỉ biết sinh tháng 5/1990 mà không biết ngày thì lấy ngày 31/5/1990. Nếu không xác định được chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng làm ngày, tháng, năm sinh. Ví dụ chỉ biết sinh năm 1990 thì lấy ngày 31/12/1990.

2.10. Nghiên cứu các tài liệu về nhân thân người bị hại

– Giấy khai sinh hoặc tài liệu chứng minh về độ tuổi của người bị hại chưa thành niên;

– Giấy chứng nhận của cơ quan y tế về tình trạng thai nghén nếu người bị hại là phụ nữ có thai.

Ví dụ: Xác định độ tuổi người bị hại trong vụ án hiếp dâm, cũng phải tính tròn như cách tính tuổi của bị cáo, nếu trường hợp không xác định được chính xác ngày sinh của họ thì phải lấy ngày đầu tiên của tháng để tính. Nếu xác định tháng 2/1990 thì lấy ngày 1/2/1990 để tính, nếu không xác định được cả tháng sinh mà chỉ xác định được năm sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm. Ví dụ chỉ xác định được năm 1990 thì lấy ngày 1/1/1990 để tính tuổi.

2.11. Nghiên cứu các tài liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can

– Tài liệu nguồn tin về tội phạm (tố giác của công dân, tin báo của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội). Biên bản tự thú của người có hành vi phạm tội, các biên bản xác minh của cơ quan điều tra;

– Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can;

– Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can (nếu có) các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát;

– Quyết định tách, nhập vụ án (nếu có).

2.12. Nghiên cứu các văn bản về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn như:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang; lệnh tạm giữ, gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam, các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát, quyết định truy nã, quyết định đình nã, công văn đề nghị hủy bỏ biện pháp tạm giam,…

2.13. Nghiên cứu các tài liệu về kết quả điều tra như

– Lệnh khám xét; các biên bản khám xét, thu giữ vật chứng, bản giao vật chứng, khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, thực nghiệm điều tra;

– Sơ đồ hiện trường;

– Lệnh kê biên và các biên bản kê biên tài sản, niêm phong và mở niêm phong lấy mẫu giám định;

– Biên bản bàn giao mẫu giám định, quyết định trưng cầu giám định;

– Kết luận giám định;

– Quyết định trả lại tài sản;

– Biên bản giao nhận tài sản;

– Bản ảnh hiện trường;

– Sơ đồ hiện trường.

Đối với các tài liệu này, trước hết cần phải kiểm tra việc tuân thủ các quy định của BLTTHS về trình tự, thủ tục lập biên bản và tiến hành các hoạt động tố tụng này của cơ quan điều tra như: thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, việc ký xác nhận vào biên bản.

Ví dụ 1: Khám nghiệm hiện trường vụ án tai nạn giao thông thì những người chứng kiến ký vào biên bản có phải là những người có mặt chứng kiến từ đầu vụ tai nạn hay không? Những người, ảnh hoặc đồ vật được đưa ra nhận dạng, bị thu giữ, niêm phong…. Đối với các vật chứng được thu giữ thì cần chú ý nơi và cách thức tìm ra vật chứng (do khám xét, khám nghiệm hiện trường, bị can khai ra nơi cất giữ hay do người nào mang đến nộp). Các đặc điểm riêng của vật chứng: cần so sánh vật chứng với các chứng cứ khác để xác định sự thật của vụ án.

Ví dụ 2: Tại hiện trường thu được một chiếc gậy bằng gỗ lim và theo kết luận của cơ quan điều tra thì bị can đã dùng chiếc gậy này đập nhiều nhát vào mặt nạn nhân, nhưng dấu vết trên mặt nạn nhận theo kết luận giám định thì chỉ là sây sát ở mặt do va chạm nhẹ, răng vẫn còn nguyên vẹn… và như vậy rõ ràng chiếc gậy không thể là hung khí để gây án như kết luận của cơ quan điều tra được.

2.14. Nghiên cứu kết luận giám định

– Trước hết cần kiểm tra các tài liệu, đồ vật (số lượng, chất lượng các đồ vật, tài liệu Cơ quan điều tra gửi đi) mà cơ quan giám định đã xem xét để đưa ra kết luận giám định;

– Thẩm quyền của tổ chức (Hội đồng) giám định và tính hợp pháp của kết luận giám định. Cần so sánh kết luận giám định với các nội dung yêu cầu giám định và chứng cứ, tài liệu khác của vụ án để xác định độ chính xác, khách quan của kết luận giám định. Trong trường hợp cần thiết phải quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Trong các vụ án gây thương tích thì phải xem chứng thương của bệnh viện mô tả thương tích của người bị hại khi vào viện như thế nào để xác định được cơ chế hình thành vết thương có phù hợp với hung khí gây án không? Kết luận giám định đã giám định đầy đủ các vết thương trên người nạn nhân chưa.

Bên cạnh việc nghiên cứu những tài liệu chính liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự, Thẩm phán cũng cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc các nhóm tài liệu khác như:

+ Các tài liệu về đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra;

+ Quyết định trưng cầu giám định pháp y, pháp y tâm thần;

+ Quyết định truy nã;

+ Tài liệu về việc điều trị của bị can;

+ Quyết định tạm đình chỉ vụ án (trường hợp bị can trốn hoặc bị bắt buộc chữa bệnh);

+ Quyết định tách vụ án (trường hợp bị can bỏ trốn trong quá trình điều tra);

+ Quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án (đối với bị can trong vụ án có đồng phạm);

+ Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;

+ Quyết định phục hồi điều tra (trong trường hợp hủy bỏ quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra).

Cùng các tài liệu kết thúc điều tra như:

+ Kết luận điều tra vụ án;

+ Biên bản giao nhận kết luận điều tra cho bị can;

+ Thông báo kết quả điều tra cho đương sự; thống kê tài liệu có trong hồ sơ và biên bản giao nhận hồ sơ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.

Các tài liệu về truy tố như:

+ Các tài liệu bổ sung của Viện kiểm sát (các biên bản phúc cung…);

+ Quyết định thay đổi, bổ sung khởi tố vụ án, khởi tố bị can (nếu có);

+ Cáo trạng, biên bản giao nhận Cáo trạng;

+ Biên bản giao nhận hồ sơ giữa Viện kiểm sát và Tòa án.

Ngoài ra, trong trường hợp Tòa án cấp trên hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử lại thì hồ sơ vụ án bao gồm toàn bộ hồ sơ vụ án đã xét xử lần 1; các tài liệu phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm (như kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại, bản án, biên bản phiên tòa của cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm).

  1. Những tình huống thường gặp khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

3.1. Về thẩm quyền giải quyết

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa được giao nhiệm vụ xét xử vụ án đó xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử thì phải báo cáo Chánh án để chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử theo quy định tại Điều 174 BLTTHS:

Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án”.

Còn lại các trường hợp xác định thẩm quyền khác đều phải căn cứ vào quy định tại các Điều từ 170 đến 173 của BLTTHS.

3.2. Về vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung

Thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp Viện kiểm sát không hề muốn Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung kể cả trường hợp Tòa án trả hồ sơ là hoàn toàn đúng và có căn cứ. Để khắc phục vấn đề này, theo quan điểm của tôi khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thẩm phán cần tuân thủ các trường hợp quy định tại Điều 179 BLTTHS để trả hồ sơ, tránh trường hợp chuyển hồ sơ đi, chuyển hồ sơ lại mà kết quả là không điều tra thêm được gì, thậm chí còn gây căng thẳng trong mối quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp khi phát hiện ra những vi phạm theo Điều 179 BLTTHS quy định thì nhất thiết phải trả hồ sơ và nêu rõ những nội dung cần điều tra bổ sung, nếu Viện kiểm sát không làm theo những nội dung mà Tòa án yêu cầu thì chúng ta vẫn đưa ra xét xử. Trong trường hợp này nếu cấp phúc thẩm có hủy án yêu cầu điều tra lại thì cũng không phải là lỗi của Thẩm phán, nếu vì lý do khác mà chúng ta không trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà bản án bị hủy thì đó là lỗi chủ quan của Thẩm phán. Do giới hạn của việc xét xử theo quy định tại Điều 196 BLTTHS có những trường hợp Thẩm phán vẫn phải xử theo Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, rồi sau đó lại phải kiến nghị ngay trong bản án đề nghị cấp phúc thẩm hủy chính bản án của mình. Đây chính là những bất cập, đang có nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi Điều 196 BLTTHS.

3.3. Trích tiểu hồ sơ và lập kế hoạch xét hỏi

Lập kế hoạch xét hỏi là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với những vụ án đồng phạm lớn, có nhiều bị cáo hoặc những vụ án kinh tế lớn phải xét xử nhiều ngày. Việc Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa và các vị Hội thẩm nhân dân có chủ động được trong việc điều hành phiên tòa và giải quyết tốt các tình huống phát sinh tại phiên tòa hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu hồ sơ, trích tiểu hồ sơ và lập kế hoạch xét hỏi. Do vậy, sau khi nghiên cứu hồ sơ xong, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa cũng như các vị Hội thẩm nhân dân cần trích một tiểu hồ sơ phục vụ cho công tác thẩm vấn tại phiên tòa. Trong tiểu hồ sơ cần thể hiện rõ:

– Tóm tắt nội dung vụ án, tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã truy tố, những mâu thuẫn trong lời khai với cáo trạng của Viện kiểm sát.

– Tóm tắt lời khai của từng bị cáo phù hợp với nội dung của Cáo trạng và diễn biến của vụ án, được sử dụng như là những chứng cứ buộc tội có các bút lục cụ thể, dùng để đấu tranh kịp thời với bị cáo tại phiên tòa, có thể dùng ngay lời khai của bị cáo này để đấu tranh với các bị cáo khác, nếu vì lý do nào đó mà bị cáo lại chối bỏ lời khai của mình như đã trình bày tại cơ quan điều tra.

– Tóm tắt các bút lục chứa đựng các chứng cứ buộc tội như biên bản giám định, giấy chứng thương, sổ sách, chứng từ…

– Tóm tắt các bút lục ghi lời khai của người bị hại, nhân chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bao gồm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.

Khi lập kế hoạch xét hỏi, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa và các vị Hội thẩm nhân dân thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, phải phân loại các bị cáo và cần lưu ý các tình huống có thể xảy ra, kể cả trong trường hợp hồ sơ thể hiện các bị cáo khai rất thành khẩn, cần xác định các tình huống như:

– Các bị cáo có thể sẽ phản cung, tại cơ quan điều tra các bị cáo đã khai báo thành khẩn nhưng ra tới phiên tòa khi nhìn thấy tên cầm đầu của bọn chúng lại chối bỏ lời khai của mình nên các bị cáo khác cũng theo đó mà chối bỏ lời khai của mình.

– Cần phân loại và đánh giá xem bị cáo nào khi ra Tòa sẽ khai thành khẩn thì hỏi trước, đôi khi không nên hỏi bị cáo đầu vụ mà có kế hoạch hỏi tất cả các bị cáo có vai trò thứ yếu trước rồi mới có kế hoạch xét hỏi bị cáo đầu vụ sau.

– Cần phải có những câu hỏi trọng tâm, gợi mở để bị cáo tự khai ra những hành vi phạm tội của mình.

– Khi đặt câu hỏi cũng cần có kế hoạch đưa ra các tài liệu, chứng cứ ra để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nếu bị cáo cố tình ngoan cố không chịu khai báo thành khẩn.

Tóm lại để hoàn thiện hơn các kỹ năng trong việc nhận, thụ lý, nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự thì đòi hỏi mỗi cán bộ Tòa án, Thẩm phán một mặt phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để áp dụng triệt để vào công việc và nhiệm vụ được giao như nhận, thụ lý, nghiên cứu và tiến tới nhằm mục đích xét xử, giải quyết vụ án được chính xác và tuân thủ theo quy định của pháp luật. Mặt khác yêu cầu mỗi cán bộ Tòa án, Thẩm phán phải luôn luôn cải tiến phong cách làm việc, không nhừng học tập kinh nghiệm của những người đi trước cùng với việc nắm rõ nội dung quy định của các văn bản quy phạm pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.

Bên cạnh đó các Tòa án cần thường xuyên tổ chức những buổi trao đổi kinh nghiệm về việc nhận, thụ lý, nghiên cứu vụ án hình sự; để tránh việc hiểu và áp dụng khác nhau của mỗi địa phương, của Tòa án các cấp trong tỉnh nên cần kiến nghị lên Tòa án nhân dân tối cao mở những lớp tuận huấn nâng cao nghiệp vụ về nội dung này để tạo nên sự thống nhất trên phạm vi toàn quốc về kỹ năng nhận, thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự được đúng đắn, chính xác, đảm bảo tuân theo những quy định của pháp luật hiện hành, tiến tới đáp ứng với tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

 

BÀI 2:

KỸ NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

                                                                                                                

Trong lộ trình của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, thì Tòa án được xác định là trung tâm của cải cách tư pháp, hoạt động xét xử là trọng tâm. Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự thì cần “bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Hoạt động của Tòa án tại phiên tòa là để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án. Xét xử là một dạng đặc biệt của hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Tòa án, mà cụ thể là Hội đồng xét xử tiến hành công khai.

Chính vì vậy, một phiên tòa hình sự có bảo đảm tính chất tranh tụng hay không phụ thuộc nhiều vào yếu tố, trong đó vai trò của chủ tọa phiên tòa có thể nói là quan trọng nhất. Kết quả của phiên tòa như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử hiện nay, một số Thẩm phán vẫn chưa thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết số 08, nên đã có không ít phiên tòa chưa thể hiện tinh thần tranh tụng, phán quyết của Tòa án chưa căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Việc vẫn còn những tình trạng này cũng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về các Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chưa nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và tinh thần của Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, thì Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố tụng, vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Chính vì vậy, để việc tổ chức và điều khiển tốt phiên tòa theo đúng tinh thần của cải cách tư pháp và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì chủ tọa phải thực hiện nhiều việc ngoài những công việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần chú ý, thực hiện tốt những công việc cụ thể như:

  1. Những công việc chuẩn bị để Hội đồng xét xử vào phòng xử án

– Đối với các vụ án phức tạp, đông bị cáo Thẩm phán chủ toạ cần có sự trao đổi thống nhất nội dung thẩm vấn với Hội thẩm về kế hoạch thẩm vấn. Thẩm phán có thể phân công từng Hội thẩm phụ trách một phần thẩm vấn cụ thể hoặc người tham gia tố tụng cụ thể để tránh việc câu hỏi lặp đi lặp lại, không đúng trọng tâm giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân.

– Yêu cầu Thư ký kiểm tra sự có mặt của Kiểm sát viên, bị cáo, những người tham gia tố tụng được triệu tập, phổ biến nội quy phiên toà rồi mời Hội đồng xét xử vào phòng xử án.

  1. Thủ tục bắt đầu đầu phiên toà

2.1. Khai mạc phiên toà

– Khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, Thư ký yêu cầu tất cả mọi người có mặt trong phòng xử án đứng dậy. Lưu ý, về tác phong Thẩm phán chủ tọa phiên toà nên có động tác quan sát toàn bộ phòng xử án rồi mới khai mạc phiên tòa, sau đó mời mọi người ngồi xuống. Tránh trường hợp Thẩm phán chủ tọa vào chưa nhìn ai cả đã khai mạc rồi mời mọi người ngồi xuống, như vậy mất đi tính uy nghiêm của phiên toà.

– Thay mặt Hội đồng xét xử Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử. Khi đọc quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử Chủ toạ nên đọc to, dõng dạc, chậm rãi để tăng tính trang nghiêm của phiên toà.

Lưu ý, khi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử Chủ tọa phiên toà nên yêu cầu bị cáo đứng vào vành móng ngựa và những người tham gia tố tụng có giấy triệu tập của Toà án phải đứng dậy để nghe quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, không nên để như hiện nay nhiều phiên tòa khi công bố quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử Chủ tọa vẫn để tất cả mọi người ngồi nghe là không bảo đảm tính uy nghiêm của phiên tòa.

Sau khi công bố quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Thư ký phiên tòa báo cáo sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa cần căn cứ vào đề cương điều khiển phiên tòa để thực hiện các thủ tục cần thiết. Cần lưu ý, phần mở đầu phiên tòa là rất quan trọng, nếu diễn ra suôn sẻ thì các phần sau sẽ rất thuận lợi và giúp cho Thẩm phán chủ tạo phiên tòa tự tin và chủ động hơn trong việc điều khiển phiên tòa.

2.2. Kiểm tra căn cước những người được triệu tập đến phiên toà

  1. Đối với bị cáo

Chủ tọa phiên tòa cần hỏi kỹ về tên, tuổi, thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, nơi làm việc, trình độ học vấn, họ tên cha, mẹ, hoàn cảnh gia đình. Kiểm tra nhân thân của bị cáo đã bị kết án lần nào chưa? Nếu có thì bị kết án về tội gì, Tòa án nào xử, thời gian xử, tù giam hay án treo, đã chấp hành hình phạt xong chưa, trong vụ án này có bị tạm giam, tạm giữ không, thời gian bao lâu hoặc có bị xử lý hành chính không, nếu có thì bị xử lý về hành vi gì, thời gian xử lý? Để có cơ sở xác định về tiền án, tiền sự làm cơ sở cho việc định tội, định khung hình phạt hoặc tổng hợp hình phạt. Khi hỏi, Chủ tọa cần đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem có giống nhau không, nếu khác nhau thì phải làm rõ vì sao khác nhau.

Lưu ý, nếu trước đó bị cáo được hưởng án treo, thì cần hỏi xem tại bản án trước đó bị cáo có bị tạm giam, tạm giữ ngày nào không và thời gian bao lâu để trừ cho bị cáo nếu vụ án phải tổng hợp hình phạt của hai bản án. Đây là trường hợp rất dễ quên và nhầm lẫn.

Hỏi bị cáo đã nhận được bản Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa. Nếu bị cáo chưa nhận được hoặc đã nhận được nhưng dưới 10 ngày và yêu cầu hoãn xử thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử thì mới được xét xử và cần phải có biên bản ghi lại sự tự nguyện đó.

  1. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

Chủ toạ chỉ cần hỏi về tên tuổi, nghề nghiệp và nơi ở của họ.

Lưu ý, đối với người đại diện hợp pháp của người bị hại, khi nghiên cứu hồ sơ thấy, đối với người bị hại bị chết mà có thể có nhiều người có tư cách để là người đại diện hợp pháp, như đã phân tích ở phần trên, thì tại phiên tòa chủ tọa cần hỏi xem họ có được những người khác uỷ quyền hay không? Nếu không, mà tại phiên toà những người khác có đến thì cần hỏi luôn tại phiên toà xem họ có đồng ý để người đó làm người đại diện hợp pháp hay không? Đặc biệt là các vụ án người bị hại chết thì thường có sự tranh chấp về tư cách tham gia tố tụng có thể là cha, mẹ, vợ, anh chị em ruột…

2.3. Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

Về vấn đề này, hiện cũng có những quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì Chủ tọa phải phổ biến quyền và nghĩa vụ cho từng người tham gia tố tụng một.

Quan điểm thứ hai cho rằng nên phổ biến gộp theo nhóm những người tham gia tố tụng có chung quyền và nghĩa vụ khi tham gia phiên toà.

Hiện tại, vấn đề này đã có quy định của Bộ luật tố tụng hình sự do vậy, khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì nên căn cứ vào quy định tại các Điều 50, 51, 52, 53, 54, 55, 58, 59, 60, 61 để phổ biến đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Song để việc điều hành phiên tòa được khoa học, ngắn gọn, dễ hiểu, Thẩm phán nên phổ biến theo nhóm quyền hoặc nghĩa vụ mà những người tham gia tố tụng được hưởng hoặc phải chấp hành.

Ví dụ: Ngoài những quyền và nghĩa vụ riêng thì những người tham gia tố tụng có những quyền chung như quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu bao gồm bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại; người bào chữa; người có quyền liên quan. Quyền thay đổi người tiến hành tố tụng thì chỉ có người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định, phiên dịch là không có quyền này, còn lại đều có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng…

Khi phổ biến, phải giải thích các quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng hiểu. Đối với một số quyền, khi phổ biến có thể hỏi ngay việc thực hiện quyền đó. Ví dụ: Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, nếu bị cáo đã nhờ người bào chữa thì phải hỏi xem tại phiên toà bị cáo có đồng ý để Luật sư bị cáo mời bào chữa cho mình không, nếu bị cáo không mời người bào chữa thì giải thích cho bị cáo quyền tự bào chữa, hoặc nếu Toà án chỉ định người bào chữa trong những trường hợp bắt buộc thì cũng hỏi xem bị cáo có đồng ý không…

2.4. Giải quyết việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, Thư ký Tòa án

Đây là tình huống hay xảy ra, đòi hỏi Chủ toạ phiên tòa phải hết sức bình tĩnh để xử lý. Cụ thể, sau khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố các thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký, nếu có người giám định, phiên dịch thì chủ tọa cũng cần giới thiệu tên, chức vụ của những người đó và phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng, xem có ai xin thay đổi người tiến hành tố tụng hay không? Nếu có người xin thay đổi thì yêu cầu họ nói rõ lý do họ xin thay đổi. Sau khi nghe họ nêu lý do xin thay đổi, có thể là họ xin thay đổi chính chủ tọa phiên tòa vì cho rằng chủ tọa phiên tòa sẽ không khách quan, vô tư khi xét xử, nhưng không đưa ra được lý do, thì cũng không vì thế mà chủ tọa phiên tòa nổi nóng, có những lời lẽ gay gắt, hay lời lẽ mang tính giáo dục, răn đe mà phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, phân tích những căn cứ của việc xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Trong mọi trường hợp nếu có người tham gia tố tụng xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử cũng phải tuyên bố tạm dừng phiên toà để vào phòng nghị án để thảo luận. Giải quyết vấn đề này, có thể xảy ra hai trường hợp đó là:

– Trường hợp thứ nhất, sau khi người bị yêu cầu thay đổi là thành viên của Hội đồng xét xử trình bày ý kiến về việc bị xin thay đổi, sau đó Hội đồng xét xử biểu quyết và quyết định theo đa số. Nếu quyết định không chấp nhận đề nghị thay đổi thì Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử và tuyên bố không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin thay đổi thành phần Hội đồng xét xử của người tham gia tố tụng.

– Trường hợp thứ hai: Nếu quyết định chấp nhận đề nghị thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử theo yêu cầu của người tham gia tố tụng, thì phải xem xét xem có người thay thế không. Nếu không có người thay thế thì phải hoãn phiên tòa.

Lưu ý: Nếu người bị thay đổi là Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên mà không có người thay thế thì phải hoãn, nếu có Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên dự khuyết thì những người này phải được nghiên cứu hồ sơ vụ án rồi và có mặt từ đầu tại phiên tòa thì  mới được thay thế. Nếu là Thư ký Tòa án thì Chánh án hoặc Phó chánh án Tòa án sẽ cử người khác thay thế và phiên tòa sẽ xét xử bình thường. Nếu người bị yêu cầu thay thế là người giám định, phiên dịch thì ngoài việc yêu cầu người đề nghị thay thế phải trình bày lý do xin thay thế và người bị đề nghị thay đổi phải trình bày ý kiến của mình về việc bị xin thay đổi, sau đó Hội đồng xét xử sẽ vào phòng nghị án để thảo luận và quyết định.

2.5. Giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên toà khi có người vắng mặt

Tại phiên tòa sau khi giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng xong, Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm tài liệu, vật chứng ra xem xét tại phiên tòa hay không?

Nếu có người yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật chứng ra xem xét thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định tại phòng xử án. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử chủ động hoặc theo yêu cầu của Kiểm sát viên và yêu cầu của những người tham gia tố tụng quyết định có hoãn phiên tòa hay không. Tuỳ theo trường hợp Hội đồng xét xử xem xét và quyết định như sau:

– Nếu vắng mặt bị cáo mà có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa, nếu bị cáo vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật tố tụng hình sự đó là:

Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;

Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên toà;

Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ.

Lưu ý: Trong trường hợp thứ nhất cần áp dụng đúng theo thông tư liên ngành số 03/TT/BNV (C11) ngày 11/4/1997 của Bộ Nội vụ “hướng dẫn việc truy nã người bị phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn”. Đó là nếu bị cáo trốn tránh Tòa án hoặc Hội đồng xét xử phải ra quyết định bắt tạm giam gửi cho Cơ quan Công an và yêu cầu phải báo lại cho Tòa án kết quả bắt tạm giam. Nếu không bắt được bị cáo thì Tòa án phải làm Công văn yêu cầu Cơ quan Công an ra lệnh truy nã đối với bị cáo đồng thời tạm đình chỉ nếu thời hạn chuẩn bị xét xử đã hết. Sau một tháng, kể từ khi có lệnh truy nã mà vẫn chưa bắt được, cơ quan Công an phải báo cáo lại và Tòa án sẽ xét xử vắng mặt bị cáo.

Trường hợp vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì phải hoãn phiên tòa. Nếu người chưa thành niên không khai báo về địa chỉ, Cơ quan điều tra đã xác minh làm hết trách nhiệm, nhưng bị cáo cố tình giấu địa chỉ, không xác minh được người đại diện hợp pháp hoặc các tổ chức tham gia phiên tòa thì không cần phải có người đại diện hợp pháp theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 03 ngày 20/06/1992 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).

– Vắng mặt người bào chữa: Trong những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo khoản 2 Điều 57 thì phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, trong trường hợp bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo không nhờ người bào chữa và đều từ chối việc Đoàn luật sư cử người bào chữa thì vẫn xét xử. Cần chú ý thực hiện theo đúng hướng dẫn tại điều 2 mục II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” đó là:

“a. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền được lựa chọn người bào chữa;

  1. Đối với bị can, bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên không có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì chỉ họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa; do đó, trong trường hợp người thân thích của họ hoặc người khác lựa chọn (mời) người bào chữa cho họ thì cần phân biệt như sau:

b1. Nếu việc lựa chọn (mời) người bào chữa đã có sự đồng ý (hoặc có sự ủy quyền của bị can, bị cáo thì Tòa án cấp giấy chứng nhận bào chữa để họ thực hiện bào chữa;

b2. Nếu việc lựa chọn (mời) người bào chữa chưa có sự đồng ý (hoặc chưa có sự ủy quyền) của bị can, bị cáo thì Tòa án yêu cầu người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người khác thực hiện việc lựa chọn người bào chữa phải hỏi ý kiến của bị can, bị cáo đang bị tạm giam biết việc người thân thích của họ hoặc người khác đã lựa chọn (nhờ) người bào chữa cho họ và hỏi họ có đồng ý hay không. Nếu họ đồng ý thì cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để người bào chữa thực hiện việc bào chữa”.

Tại Điều 3 có quy định như sau:

a.“…Trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên, nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự.”

d2. Trường hợp yêu cầu từ chối người bào chữa (kể cả trường hợp đã có yêu cầu từ chối người bào chữa trước khi mở phiên tòa), thì Hội đồng xét xử cần phải giải thích cho họ biết người bào chữa sẽ giúp cho bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo và chi phí cho người bào chữa do Tòa án thanh toán.

Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần và thể chất mà cả bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến từ chối người bào chữa thì cần phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử theo thủ tục chung mà không có sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Nếu chỉ có bị cáo từ chối người bào chữa, còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không từ chối người bào chữa hoặc chỉ có người đại diện hợp pháp của bị cáo từ chối người bào chữa còn bị cáo không từ chối người bào chữa, thì tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung, có sự tham gia của người bào chữa đã được cử”.

Còn nếu vắng mặt người bào chữa trong các trường hợp khác thì tuỳ trường hợp cụ thể Tòa án có thể vẫn xét xử hoặc hoãn phiên tòa, tuy nhiên các Thẩm phán cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định tại các Điều 56, 57, 58 và 190 Bộ luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, cần lưu ý quy định bổ sung tại Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự về việc nếu người bào chữa vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử, trừ trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự. Thông thường trong các trường hợp vụ án nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp; hồ sơ vụ án có những điểm chưa thật rõ ràng; việc buộc tội bị cáo có những ý kiến khác nhau… và bị cáo yêu cầu mà người bào chữa vắng mặt có lý do chính đáng thì Toà án hoãn phiên toà.

 Lưu ý, việc bào chữa của luật sư do bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo mời thì nghĩa vụ của luật sư phải có mặt tại phiên tòa, song Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng cần chú ý tới việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa theo đúng quy định tại Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự, tránh trường hợp người bào chữa lấy lý do không nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử để xin hoãn phiên tòa.

– Trường hợp vắng mặt người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ.

Trong trường hợp, cần phải có lời khai của những người này tại phiên toà mới giải quyết đúng đắn vụ án hình sự thì Hội đồng xét xử cần phải hoãn phiên toà.

Nếu người bị hại, nguyên đơn đân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ của vụ án đã rõ ràng, đầy đủ, sự vắng mặt của họ không trở ngại gì cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự (khoản 2 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự).

– Trường hợp vắng mặt người làm chứng:

Trong những vụ án mang tính điều tra truy xét mà cần phải có những lời khai của người làm chứng tại phiên tòa, mới làm sáng tỏ được những tình tiết quan trọng của vụ án mà người làm chứng vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.

Lưu ý, những trường hợp muốn áp dụng biện pháp dẫn giải người làm chứng theo quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự thì cần phải có các căn cứ sau:

+ Người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ có giấy giao giấy triệu tập lưu trong hồ sơ;

+ Trong giấy triệu tập đã thông báo rõ là nếu cố ý không có mặt theo giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng thì có thể bị dẫn giải, mà họ vẫn cố tình không đến phiên toà theo giấy triệu tập;

+ Phải thuộc trường hợp nếu vắng mặt người làm chứng sẽ gây trở ngại cho việc xét xử hoặc phải hoãn phiên toà.

– Trường hợp vắng mặt người giám định: Nếu trong trường hợp kết luận giám định đã rõ ràng, không có mâu thuẫn với các chứng cứ khác thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người giám định.

Nếu vụ án có tính chất phức tạp, kết luận giám định còn có những điểm chưa rõ, cần phải hỏi thêm người giám định tại phiên toà thì phải hoãn phiên toà.

  1. Xét hỏi tại phiên toà hình sự sơ thẩm

Xét hỏi tại phiên tòa, hay như nhiều người thường gọi là “thẩm vấn”, chính là một phần của quá trình xét xử, trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản Cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án, cũng như phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ… Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật của vụ án, cũng như là những căn cứ để xác định tội danh và quyết định hình phạt. Tuy những câu hỏi và trả lời tại phiên tòa, không khác nhiều so với những câu hỏi và trả lời trong quá trình điều tra, nhưng nó lại có ý nghĩa quan trọng vì việc hỏi và trả lời tại phiên tòa được diễn ra một cách công khai, là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của cơ quan Điều tra.

Xét hỏi tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng rất quan trọng, được quy định từ Điều 206 đến Điều 216 Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là thủ tục có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với việc chứng minh vụ án vì ở thủ tục này mọi chứng cứ đều được xem xét, thẩm tra công khai, những mâu thuẫn giữa các lời khai, giữa lời khai với vật chứng… được làm sáng tỏ để khẳng định giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Đây cũng chính là cơ sở của hoạt động tranh tụng như tinh thần của Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị. Ở Việt Nam, tranh tụng tại phiên tòa chỉ là một trong những hoạt động tố tụng chứ không bao trùm lên toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Đây là điều hoàn toàn khác với “tố tụng tranh tụng” của nhiều nước trên thế giới. Tranh tụng tại phiên tòa nhưng vẫn giữ được bản chất của tố tụng xét hỏi, trên cơ sở kết quả điều tra và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Tuy là Tố tụng xét hỏi, nhưng tính chất tranh tụng tại phiên tòa vẫn là sự tranh luận giữa những người có quyền và lợi ích đối lập nhau như Kiểm sát viên với bị cáo và người bào chữa, giữa người bị hại với bị cáo và người bào chữa, trong một s� trường hợp còn có giữa Kiểm sát viên với người bị hại, giữa những người tham gia tố tụng khác với nhau. Hội đồng xét xử  không phải là những người tham gia tranh tụng, nhưng lại giữ vai trò vô cùng quan trọng đó là vai trò tổ chức, điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa giữa những người có quyền và lợi ích đối lập nhau. Với vai trò quan trọng của Hội đồng xét xử trong hoạt động xét hỏi và tổ chức, điều khiển tranh tụng tại phiên tòa, và để phiên tòa đúng với yêu cầu của cải cách tư pháp thì cần phải chú ý những vấn đề sau:

3.1. Thủ tục xét hỏi chung

Sau khi Chủ tọa phiên tòa đã làm xong phần thủ tục, Chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần thủ tục phiên toà, chuyển sang phần xét hỏi, yêu cầu đại diện Viện kiểm sát công bố bản Cáo trạng. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS thì trước khi tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung nếu có. Khi kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung vào bản cáo trạng, về nguyên tắc, kiểm sát viên phải đọc nguyên văn bản cáo trạng đă được giao cho bị cáo. Tuy nhiên, Điều 206 BLTTHS lại quy định kiểm sát viên sau khi đọc bản cáo trạng có thể “trình bày ý kiến bổ sung, nếu có”. Đến nay, các cơ quan có thẩm quyền chưa có hướng dẫn cụ thể nào về quy định này nên đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng Điều 206 BLTTHS quy định Kiểm sát viên có quyền trình bày ý kiến bổ sung sau khi đọc bản cáo trạng là không phù hợp. Vì bất kỳ sự bổ sung nào vào bản cáo trạng trước khi bắt đầu phiên tòa đều phải được giao cho bị cáo và nếu Viện kiểm sát không giao cho bị cáo thì nhất thiết phải hoãn phiên tòa.

Quan điểm khác lại cho rằng “điều luật nói đến ý kiến bổ sung về bản cáo trạng, chứ không phải là bổ sung cáo trạng. Vì vậy, ý kiến bổ sung của viện kiểm sát là nhằm để làm rõ hơn nội dung cáo trạng chứ không thay đổi, bổ sung cáo trạng”.

Lưu ý, như quan điểm trên thì trong khi trình bày bản Cáo trạng, Kiểm sát viên có thể trình bày ý kiến bổ sung về bản Cáo trạng, nếu có trường hợp này thì phải hiểu Kiểm sát viên chỉ trình bày ý kiến bổ sung về bản Cáo trạng, chứ không phải bổ sung Cáo trạng. Tức là, Kiểm sát viên chỉ trình bày làm rõ thêm nội dung của bản Cáo trạng chứ không phải thêm hoặc bớt nội dung của bản Cáo trạng (nếu có việc thêm hoặc bớt nội dung của bản Cáo trạng là vi phạm, nhất là trong trường hợp gây bất lợi cho bị cáo). Việc rút quyết định truy tố tại phiên toà chỉ được thực hiện trong lời luận tội của Kiểm sát viên theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự.

– Để việc xét hỏi đạt kết quả tốt, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của bị cáo bằng cách đặt câu hỏi và nghe ý kiến trình bày của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đặc biệt là ý kiến của người làm chứng trong các vụ án có tính điều tra truy xét, ý kiến của người giám định đối với vụ án hình sự mà kết luận giám định có chỗ chưa rõ ràng hoặc có sự thắc mắc của những người tham gia tố tụng.

Nếu cần thiết cần phải xem xét vật chứng và các tài liệu khác và phải xem xét tại chỗ. Mọi chứng cứ làm cơ sở cho Hội đồng xét xử kết luận đều phải được xem xét tại phiên tòa theo nguyên tắc “Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa” theo đúng quy định tại Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự.

– Việc xem xét vật chứng hoặc công bố các tài liệu có trong hồ sơ có thể sử dụng bất cứ lúc nào trong quá trình xét hỏi, để chứng minh các tình tiết của vụ án một cách đúng đắn nhất. Ví dụ: Đối với các vụ án Cố ý gây thương tích, khi xét hỏi về hành vi và hậu quả xảy ra, nếu có mâu thuẫn thì Hội đồng xét xử có thể công bố ngày kết luận giám định pháp y, chứng thương của Bệnh viện về nguyên nhân và cơ chế hình thành vết thương, tỷ lệ thương tích mà bị cáo gây ra cho người bị hại.

Đối với vật chứng cần xem xét tại chỗ, cần yêu cầu người có liên quan đến vật chứng, bị cáo phải trình bày, mô tả vật chứng trước rồi mới đưa vật chứng ra. Ví dụ: Yêu cầu bị cáo mô tả con dao đã dùng để gây án như kích thước, hình dáng, màu sắc… sau đó đưa vật chứng ra và đặt câu hỏi làm rõ các đặc tính khách quan và hợp pháp của vật chứng, làm rõ những vấn đề liên quan đến vật chứng, đối với những vật chứng không thể đưa ra phiên tòa được thì cần công bố ảnh của vật chứng và biên bản thu giữ.

– Xem xét tại chỗ: Trường hợp cần xem xét địa điểm xảy ra tội phạm cũng như các địa điểm khác có liên quan đến vụ án hoặc cần xem xét vật chứng cồng kềnh không thể đưa đến phiên tòa được thì Hội đồng xét xử quyết định xem xét tại chỗ. Tùy thuộc vào địa điểm cần xem xét, Chủ tọa quyết định thành phần những người tham gia xem xét tại chỗ. Thông thường thành phần gồm: Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người có liên quan đến vật chứng hoặc địa điểm cần xem xét. Quá trình xem xét Hội đồng xét xử có thể đặt câu hỏi để làm rõ những thắc mắc liên quan đến vật chứng, địa điểm cần xem xét.

Trong thực tế xét xử, trường hợp này ít xảy ra tại phiên toà vì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu thấy cần thiết phải xem xét tại chỗ hiện trường nơi xảy ra tội phạm thì Hội đồng xét xử đã cùng với Kiểm sát viên tiến hành xem xét. Tuy vậy, cũng có trường hợp tại phiên toà sau khi công bố biên bản về hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, bị cáo, người bị hại, người làm chứng hoặc người có liên quan mới phát hiện ra những điểm mô tả trong biên bản không đúng với thực tế thì Hội đồng xét xử vẫn cần phải quyết định xem xét tại chỗ. Ví dụ: như vụ Dâm ô tại Từ Sơn, Hội đồng xét xử cũng phải xuống tận hiện trường để xem xét tại chỗ.

3.2. Về trình tự xét hỏi đối với từng người

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định phải hỏi ai trước, ai sau. Tuỳ thuộc vào vụ án hình sự cụ thể, khi nghiên cứu hồ sơ Chủ tọa phiên tòa có kế hoạch xét hỏi sao cho hợp lý. Thứ tự xét hỏi hợp lý không phải là thứ tự bất biến, phù hợp với tất cả các vụ án mà là thứ tự được xác định một cách hợp lý trên cơ sở nội dung từng vụ án cụ thể cũng như thái độ khai báo của những người tham gia tố tụng trong vụ án đó. Xác định thứ tự xét hỏi hợp lý thực sự là công việc không đơn giản, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm, kĩ năng của người xét hỏi. Về nguyên tắc chung, theo chúng tôi, việc xác định thứ tự xét hỏi phải xuất phát từ nội dung xét hỏi (các vấn đề cần được làm rõ) trong từng vụ án, từ đặc điểm của những người tham gia tố tụng và phải đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Về nội dung xét hỏi, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa cần lập kế hoạch xét hỏi trong đó nêu rõ những vấn đề cần làm sáng tỏ bao gồm các tình tiết định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt như tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo; các tình tiết liên quan đến việc giải quyết vấn đề dân sự, xử lý vật chứng, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trên cơ sở những vấn đề cơ bản đó, tùy từng vụ án cụ thể, thẩm phán cần xác định được một cách chính xác những điểm mấu chốt cần làm rõ tại phiên tòa sơ thẩm. Từ nội dung các vấn đề cần xét hỏi, thẩm phán xác định thứ tự xét hỏi đối với từng vấn đề một. Cách thức xét hỏi theo vấn đề như vậy sẽ giúp quá trình xét hỏi được mạch lạc, rõ ràng, tránh sự trùng lặp, hỏi đi hỏi lại về cùng một vấn đề.

Khi hỏi bị cáo, đối với vụ án đồng phạm thì cần phải hỏi riêng từng bị cáo, nếu thấy lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì cần cách ly các bị cáo. Bị cáo bị cách ly, được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước. Đối với vụ án có đồng phạm, Hội đồng xét xử thường chọn bị cáo chính để hỏi trước, bị cáo khác hỏi sau hoặc hỏi bị cáo khai nhận tội rõ ràng trước với hi vọng bị cáo này sẽ cung cấp những tài liệu, chứng cứ quan trọng làm sáng tỏ ngay từ đầu hành vi phạm tội của bị cáo chính. Thứ tự xét hỏi này không vi phạm quy định của BLTTHS và trên thực tế đã phát huy tác dụng, giúp việc xét hỏi không bị kéo dài mà vẫn làm rõ được nội dung vụ án. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, việc xét hỏi bị cáo trước (nhất là bị cáo nhận tội) dễ tạo cảm giác không khách quan, khiến người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa cho rằng mọi việc xét hỏi sau đó chỉ nhằm củng cố lời nhận tội của bị cáo; bản thân hội đồng xét xử cũng khó tránh khỏi định kiến là bị cáo đã có tội và chỉ cần củng cố chứng cứ để kết tội.

Ví dụ: Trong vụ án đồng phạm, nếu bị cáo có vai trò đầu vụ mà thái độ khai báo thành khẩn thì hỏi trước, nếu bị cáo đầu vụ có thái độ khai báo thiếu thành khẩn hoặc có khả năng sẽ phản cung trước phiên tòa thì không nên hỏi trước mà hỏi các bị cáo có vai trò thứ yếu, quá trình hỏi nên dùng ngay lời khai của các bị cáo này để đấu tranh với bị cáo đầu vụ làm sáng tỏ ngay từ đầu hành vi phạm tội của bị cáo chính.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự, thì trước khi hỏi bị cáo, phải để bị cáo trình bày ý kiến của họ về bản Cáo trạng và những tình tiết của vụ án, sau đó mới hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc còn mâu thuẫn.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội đối với bị cáo. Đây là quy định mới và rất quan trọng đối với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, do đó tại phiên tòa nếu có những lời khai mâu thuẫn hoặc các bị cáo không thừa nhận bản Cáo trạng thì Kiểm sát viên phải có trách nhiệm chứng minh để bảo vệ bản Cáo trạng của mình, trong bản luận tội của Kiểm sát viên không phải chỉ nêu các tình tiết, chứng cứ buộc tội bị cáo mà còn phải nêu đầy đủ cả các tình tiết, chứng cứ gỡ tội cho bị cáo (nếu có). Nếu thông qua phần xét hỏi mà chứng minh bị cáo không phạm tội thì Kiểm sát viên còn phải rút quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án.

Trong vụ án có nhiều hành vi phạm tội hay có nhiều tội bị truy tố, Chủ tọa phiên tòa nên lựa chọn những hành vi cụ thể rõ ràng để hỏi trước. Tùy theo từng trường hợp cụ thể Hội đồng xét xử quyết định trình tự xét hỏi đối với từng người, đối với từng hành vi hoặc từng tội. Đối với hành vi hoặc tội phạm này thì hỏi bị cáo là người thực hành trước; nhưng đối với hành vi hoặc tội phạm khác thì có thể hỏi người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục trước…

Tuy Điều 207 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định về trình tự xét hỏi. Song thực tế, việc xét hỏi đa phần do Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa hỏi là chính và để xác định sự thật khách quan của vụ án có thể phải xét hỏi nhiều lần, cùng một lúc có thể xét hỏi nhiều người để kiểm tra tính xác thực của vụ án.

Ví dụ: Trong khi xét hỏi bị cáo, chủ tọa có thể yêu cầu người làm chứng, người bị hại hoặc các bị cáo khác trong cùng vụ án, khai báo để kiểm tra, đối chứng ngay tính khách quan, đúng đắn trong các câu trả lời của bị cáo. Điều này, giúp cho người xét hỏi xác định sự thật khách quan của vụ án toàn diện hơn.

Lưu ý, chỉ được công bố lời khai của người bị xét hỏi tại cơ quan điều tra, trong các trường hợp sau:

+ Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ tại cơ quan điều tra.

+ Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa (từ chối khai báo tại tòa).

+ Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.

Khi công bố lời khai của họ, Chủ tọa phiên tòa cần hỏi xem họ có còn nhớ lời khai của họ tại cơ quan điều tra hay không, rồi mới công bố lời khai, sau khi công bố lời khai cần yêu cầu họ khẳng định lời khai của họ. Nếu họ chối bỏ cần cho họ xem và xác nhận chữ ký của họ tại biên bản hỏi cung bị can hoặc biên bản ghi lời khai.

* Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của việc đặt câu hỏi.

Việc đặt câu hỏi, có vai trò rất quan trọng trong quá trình xét hỏi, xác định sự thật của vụ án. Câu hỏi được đưa ra phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

– Thứ nhất: Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng về nội dung và xác định được đối tượng cần được làm rõ. Tránh trường hợp đặt câu hỏi dài dòng, vòng vo làm cho người được xét hỏi khó nắm bắt để trả lời. Trong quá trình đặt câu hỏi, có thể đặt ra các câu hỏi không trực tiếp liên quan đến đối tượng nhằm kiểm tra các chứng cứ, lời khai. Tuyệt đối không được đưa ra các câu hỏi mang tính đánh đố hoặc “mớm” cho người được xét hỏi  trả lời theo hướng đã định sẵn.

Thứ hai: Không nên đặt câu hỏi và yêu cầu người được xét hỏi chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Với tâm lý sợ hãi, mất bình tĩnh của người được xét hỏi tại phiên toà, nhất là các bị cáo thì việc đặt câu hỏi như vậy rất thiếu khách quan.

Ví dụ: Có vụ án về tội giết người xảy ra vào hồi 21h ngày 25/9/2009 tại nhà nghỉ A và bị cáo bị truy tố về tội giết người với vai trò là người thực hành. Để kiểm tra xem bị cáo có chứng cứ ngoại phạm không thì không được đặt câu hỏi “vào 21h ngày 25/9/2009 bị cáo có mặt ở nhà nghỉ A phải không?” để bị cáo trả lời “có” hoặc “không”; mà phải đặt câu hỏi “vào 21h ngày 25/9/2009, bị cáo đang ở đâu và làm gì?”. Hỏi như vậy để bị cáo nhớ lại và trả lời khi đó bị cáo đang ở đâu và làm gì. Câu trả lời của bị cáo đối với câu hỏi sẽ bảo đảm tính khách quan hơn vì đã huy động được tư duy khách quan của bị cáo.

Trong quá trình xét hỏi tránh trường hợp đôi co với người được xét hỏi. Trong vụ án có đồng phạm, cần xác định hỏi bị cáo nào trước, bị cáo nào sau, làm sao cho việc xét hỏi được thuận lợi nhất và làm sáng tỏ được sự thật khách quan của vụ án. Đôi khi không nhất thiết phải buộc các bị cáo đều phải trình bày lại các tình tiết của vụ án, khi hỏi bị cáo đầu tiên về các tình tiết của vụ án, nên kết hợp việc dùng các bị cáo khác, xác định lời khai của bị cáo đang được xét hỏi, khẳng định về các tình tiết của vụ án. Nếu có sự mâu thuẫn giữa lời khai của các bị cáo, cần tiến hành đối chất ngay tại phiên toà.

Lưu ý một số tình huống thường gặp khi xét hỏi:

– Đối với trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, mà có khó khăn trong việc khai báo thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu cha mẹ, người giám hộ của họ giúp đỡ để hỏi bị cáo. Nếu thấy có mặt của những người này làm cho bị cáo không dám khai, thì mời họ tạm rời khỏi phòng xử án. Sau khi bị cáo đã khai thì lại mời họ vào phòng xử án và nhắc lại nội dung mà bị cáo vừa khai báo để họ được biết.

– Đối với những trường hợp bị cáo nhận tội:

Trong trường hợp bị cáo nhận tội thành khẩn, thì Chủ tọa phiên tòa cũng không được chủ quan tin vào lời khai của bị cáo ngay, mà cần cho bị cáo trình bày đầy đủ các hành vi phạm tội và tình tiết của vụ án. Các tình tiết này phải thể hiện rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, cần dùng các chứng cứ khác để kiểm tra, chứng minh lời nhận tội của bị cáo là đúng. Cần xác định động cơ nhận tội của bị cáo để có phương án giải quyết vụ án thích hợp. Động cơ nhận tội của bị cáo có thể bao gồm:

Nhận tội do thực sự thành khẩn;

Nhận tội nhẹ để che giấu một tội khác nặng hơn;

Nhận tội thay người khác;

Nhận tội do bức xúc hay bất cần vì quá mệt mỏi trong quá trình điều tra và bị giam giữ lâu ngày nên nhận bừa cho xong;

Tại cơ quan Điều tra bị cáo không nhận tội, nhưng tại phiên toà lại nhận tội để mong được giảm nhẹ.

Vì việc nhận tội của bị cáo có thể do nhiều động cơ khác nhau, do vậy chỉ có thể kết luận bị cáo phạm tội khi lời nhận tội của họ phù hợp với các chứng cứ khác có trong vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị cáo là chứng cứ duy nhất để kết tội (Điều 72 BLTTHS).

– Đối với trường hợp bị cáo đổ lỗi cho người khác, chỉ nhận một phần về mình.

Trong trường hợp này, Chủ tọa phiên tòa phải hỏi những người tham gia tố tụng khác, kết hợp xem xét vật chứng, tài liệu khác có trong hồ sơ, kết hợp với xét hỏi các bị cáo khác, người làm chứng, bị hại, tiến hành đối chất, yêu cầu bị cáo giải thích… để xác định sự thật khách quan của vụ án, tìm những mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo và trong lời khai của bị cáo với những lời khai của những người tham gia tố tụng khác. Đặc biệt là đối với người mà bị cáo đổ lỗi sang cho họ. Nếu bị cáo khai có người khác cùng phạm tội với bị cáo mà chưa bị truy tố, Hội đồng xét xử cần xem xét kỹ lưỡng nếu lời khai của bị cáo có cơ sở thì tuỳ theo từng trường hợp có thể hoãn phiên toà để trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung hoặc vẫn xét xử và kiển nghị Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án mới.

– Trường hợp bị cáo không nhận tội hoặc không khai báo: Bị cáo không nhận tội, do nhiều nguyên nhân, động cơ khác nhau. Trong mọi trường hợp thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét hỏi đầy đủ, khách quan, toàn diện về vụ án. Khi gặp trường hợp này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải hết sức bình tĩnh, song vẫn phải cứng rắn thể hiện sự uy nghiêm của pháp luật, không để bị cáo lợi dụng sự dân chủ ở phiên tòa để đổ lỗi cho cơ quan Điều tra. Đồng thời, người xét hỏi cũng không được dụ cung, bức cung hoặc lợi dụng sự hiểu biết pháp luật hạn chế của bị cáo để buộc bị cáo khai báo không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án.

Trong trường hợp này Hội đồng xét xử, phải sử dụng phương pháp xét hỏi hợp lý để xác định sự thật của vụ án như xét hỏi xen kẽ, xem xét vật chứng, công bố tài liệu, đối chất. Đặc biệt, cần tập trung làm sáng tỏ lý do mà bị cáo không nhận tội. Hội đồng xét xử cần chú ý, khai báo không phải là nghĩa vụ của bị cáo, vì vậy không nên có thái độ khó chịu, bức xúc nóng nảy khi bị cáo không khai báo.

– Trường hợp bị cáo phản cung:

Trường hợp bị cáo phản cung là trường hợp bị cáo khai ngược hẳn lại với nội dung đã khai báo tại cơ quan Điều tra. Hội đồng xét xử phải tuỳ trường hợp (phản cung nhận tội hay chối tội) để thực hiện việc xét hỏi cho hợp lý. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử cần làm rõ động cơ phản cung của bị cáo, để từ đó tiến hành xét hỏi. Trong mọi trường hợp, Hội đồng xét xử vẫn phải chú trọng đến việc xét hỏi bị cáo và người tham gia tố tụng khác, công bố lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, yêu cầu bị cáo trả lời lý do tại sao lại khai báo khác với lời khai tại cơ quan Điều tra. Tránh trường hợp khi bị cáo phản cung theo hướng nhận tội tại phiên toà thì Hội đồng xét xử cho rằng như vậy là bị cáo thật thà khai báo mà không xét hỏi gì thêm; còn phản cung chối tội thì cho rằng bị cáo ngoan cố, không thật thà khai báo để truy bức, ép cung. Bởi vì như vậy, nguy cơ xét xử oan người vô tội là rất cao. Trong mọi trường hợp, đặc biệt khi bị cáo chối tội, không khai báo hay phản cung chối tội thì Chủ tọa phiên tòa cần yêu cầu đại diện Viện kiểm sát thực hiện việc xét hỏi để bảo vệ bản Cáo trạng, bởi vì Tòa án, không phải là cơ quan có chức năng buộc tội mà chỉ làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án tại phiên tòa. Việc buộc tội là chức năng của Viện kiểm sát. Cho nên, trong trường hợp bị cáo không khai báo, không nhận tội bị truy tố, phản cung khai báo khác với nội dung đã nêu thì đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa có trách nhiệm xét hỏi để bảo vệ Cáo trạng.

Sau khi xét hỏi bị cáo xong, Hội đồng xét xử tiếp tục xét hỏi những người tham gia tố tụng khác như: người làm chứng, người bị hại, người giám định… tuỳ theo từng vụ án và diễn biến của phiên toà mà đặt câu hỏi cho hợp lý.

Những tình huống cần xử lý khi xét hỏi những người tham gia tố tụng:

– Có những trường hợp vì quá bực tức, xúc động, người bị hại yêu cầu “máu phải trả bằng máu” (các vụ án giết người), mà không khai về bồi thường thiệt hại. Hoặc có trường hợp họ xỉ vả, mắng nhiếc bị cáo, trách móc gia đình bị cáo gây nên không khí căng thẳng ở phiên tòa. Trong những trường hợp này Chủ tọa phiên tòa cần giải thích pháp luật cho người bị hại hiểu và nhắc nhở họ tôn trọng nội quy phiên tòa với thái độ mềm mỏng, không nên nóng nảy cắt lời khai của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại. Trường hợp người bị hại khai không đúng về mức độ thiệt hại để được bồi thường nhiều, Chủ tọa phiên tòa cần hỏi kỹ người bị hại về sự thiệt hại và việc chi phí nhằm chỉ rõ những điểm không hợp lý trong lời khai và yêu cầu của họ.

– Trong khi xét hỏi các nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại. Có thể các đương sự đã thoả thuận việc bồi thường thiệt hại trước khi mở phiên tòa; cũng có thể các đương sự thể hiện mong muốn thoả thuận bồi thường tại phiên tòa… Trong các trường hợp đó Chủ tọa phiên tòa cần chấp nhận cho họ tự thoả thuận với nhau và công bố kết quả thoả thuận của các đương sự để họ xác nhận công khai. Trường hợp các đương sự đã tự thoả thuận bồi thường trước khi mở phiên toà thì cần công bố bản thoả thuận để họ xác nhận và thể hiện ý chí tại phiên toà.

3.3. Kết thúc xét hỏi                    

Sau khi Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, luật sư… đã xét hỏi xong vụ án theo trình tự luật định, nếu thấy cần thiết phải làm sáng tỏ thêm một số tình tiết của vụ án làm cơ sở cho việc quyết định của Hội đồng xét xử, Chủ tọa phiên tòa có thể tiếp tục xét hỏi thêm. Bởi vì, thông qua việc xét hỏi có thể mang tính để buộc tội hoặc gỡ tội của Kiểm sát viên, xét hỏi mang tính buộc tội hoặc gỡ tội của người bào chữa… có thể xuất hiện thêm các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án mà Hội đồng xét xử chưa lường hết được trong phần xét hỏi của mình.

Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì Chủ tọa phiên toà yêu cầu người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội. Chúng ta phải hiểu là người bị hại chỉ trình bày lời buộc tội chứ không phải là luận tội. Do vậy, khi phát biểu họ chỉ đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo hoặc không kết tội bị cáo, nếu kết tội thì là tội gì và hình phạt như thế nào là đủ, mà không yêu cầu họ phải phân tích chứng cứ, pháp luật áp dụng như trong lời luận tội của Kiểm sát viên được.

Nếu nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xét hỏi đầy đủ và không ai đề nghị xét hỏi thêm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc thủ tục xét hỏi tại phiên tòa chuyển sang phần tranh luận.

  1. Kỹ năng điều khiển phần tranh luận tại phiên tòa

4.1. Kỹ năng điều khiển trình tự phát biểu khi tranh luận

– Kiểm sát viên trình bày lời luận tội.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên trình bày lời luận tội.

Trong phần này cần lưu ý:

Chủ tọa phiên tòa không hạn chế thời gian luận tội của Kiểm sát viên. Trong quá trình Kiểm sát viên luận tội, Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe và ghi chép để nắm được nội dung luận tội thể hiện quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát làm cơ sở cho việc điểu khiển tranh luận tiếp theo và thảo luận khi nghị án.

Nếu Kiểm sát viên, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung bản Cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử cần nắm được các căn cứ xác định bị cáo có tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự của bị cáo và các đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt, giải quyết bồi thường, xử lý vật chứng của vụ án.

Nếu Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến của họ về việc rút truy tố đó (khoản 2 Điều 221 BLTTHS). Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Thẩm phán phải ghi lại các căn cứ mà Kiểm sát viên xác định bị cáo không phạm tội, Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội; nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (khoản 2 Điều 222 BLTTHS).

Trường hợp Tòa án quyết định xét xử bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt Viện kiểm sát truy tố và trong lời luận tội Kiểm sát viên chưa đề cập đến khung hình phạt nặng hơn đó, thì Chủ tọa phiên tòa cần đề nghị Kiểm sát viên tỏ thái độ về việc xử lý bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn đó hay không.

Nếu quá trình Kiểm sát viên luận tội, Hội đồng xét xử không tập trung lắng nghe sẽ không nắm được đầy đủ chính xác nội dung lời luận tội, sẽ khó có thể ra một bản án đúng đắn. Thậm chí, không xác định được những tình tiết quan trọng của vụ án mà Kiểm sát viên chưa đề cập đến trong phần luận tội để yêu cầu Kiểm sát viên bổ sung những điểm thiếu trong phần luận tội.

– Những người tham gia tố tụng phát biểu khi tranh luận.

Sau khi phần luận tội của Kiểm sát viên xong, Chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo trình bày lời báo chữa nếu bị cáo không có Luật sư, nếu bị cáo có luật sư thì yêu cầu Luật sư của bị cáo trình bày bài báo chữa trước, bị cáo bổ sung sau.

Lưu ý, trong vụ án đồng phạm có nhiều bị cáo, nhiều Luật sư thì Chủ tọa phiên tòa nên yêu cầu người bào chữa cho bị cáo có vai trò chính bào chữa trước, sau đó đến những người bào chữa cho các bị cáo đồng phạm khác theo thứ tự vai trò của các bị cáo trong vụ án.

Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào nội dung từng vụ án, có thể có một số vụ án, một số bị cáo cùng thực hiện một hành vi phạm tội, thì Chủ tọa để những người bào chữa cho các bị cáo cùng thực hiện một tội phạm bào chữa xong mới yêu cầu người bào chữa cho bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khác bào chữa. Ví dụ: Trong vụ án ma tuý có những bị cáo làm nhiệm vụ vận chuyển, có những bị cáo làm nhiệm vụ mua bán…

Chủ tọa phiên tòa nên hướng người bào chữa, bào chữa đúng trọng tâm mà họ nhận bào chữa, nếu họ bào chữa cả những vấn đề không liên quan đến bị cáo mà mình nhận bào chữa thì Chủ tọa phiên tòa có quyền cắt ý kiến của người bào chữa.

Hội đồng xét xử cần lưu ý những vấn đề người bào chữa đưa ra như:

Người bào chữa khẳng định, phủ định những vấn đề gì;

Người bào chữa đề nghị những vấn đề gì;

Các chứng cứ và căn cứ pháp lý mà người bào chữa đưa ra để bào chữa cho bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo không có người bào chữa và tự bào chữa, nhưng do áp lực về tâm lý, do nhận thức pháp luật hạn chế mà không xác định được nội dung bào chữa thì Chủ tọa phiên tòa cần gợi ý cho bị cáo thể hiện quan điểm về tội danh, về hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

Sau phần bào chữa của bị cáo thì Chủ tọa yêu cầu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, trình bày ý kiến để bảo vệ quyền lợi cho họ. Chủ tọa lưu ý họ chỉ trình bày những ý chính, tránh để họ trình bày lan man, không liên quan đến vụ án hoặc quyền lợi của họ.

4.2. Điều khiển trong phần đối đáp

Chủ tọa phiên tòa điều khiển phần đối đáp theo trình tự yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại ý kiến của người bào chữa, và những người tham gia tố tụng khác và phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến, phải có quan điểm chấp nhận hay không chấp nhận các quan điểm của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Nếu Kiểm sát viên, không trả lời hoặc trả lời không đầy đủ thì Chủ tọa phiên tòa cần nhắc Kiểm sát viên phải trả lời đầy đủ những ý kiến của những người tham gia tố tụng. Sau khi Kiểm sát viên, đối đáp xong thì Chủ tọa phiên toà, yêu cầu người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày những ý kiến đáp lại.

Lưu ý, tất cả những người tham gia tranh luận đều có quyền đáp lại ý kiến của người khác và Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận.

4.3. Giải quyết việc trở lại xét hỏi

Qua tranh luận, nếu thấy có những vấn đề chưa rõ, cần phải xem xét thêm mới có thể kết luận được thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại phần xét hỏi, khi đã hỏi rõ những vấn đề cần hỏi thêm, Chủ tọa phiên tòa tiếp tục cho tranh luận theo trình tự chung.

4.4. Bị cáo nói lời sau cùng

Sau khi kết thúc phần tranh luận, Chủ tọa hỏi xem có ai có ý kiến gì thêm không. Nếu không có ai cần trình bày thêm, Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần tranh luận, chuyển sang phần Nghị án. Chủ tọa phiên tòa cho bị cáo nói lời sau cùng.

Hội đồng xét xử không được hạn chế thời gian trình bày của bị cáo khi nói lời sau cùng. Hội đồng xét xử cần chú ý lắng nghe để nắm bắt được những điểm quan trọng nhất, không được đặt câu hỏi để yêu cầu bị cáo trả lời.

 Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án mà chưa được làm sáng tỏ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại xét hỏi để xác định cho rõ.

Sau khi bị cáo đã trình bày xong lời nói sau cùng, Chủ tọa phiên tòa tuyên bố nghỉ nghị án. Nếu dự kiến việc nghị án kéo dài sang ngày khác thì Chủ tọa cần tuyên bố rõ thời gian tuyên án.

Lưu ý, trong thực tiễn có vụ án trong biên bản phiên tòa không thể hiện phần bị cáo được nói lời sau cùng do vậy Luật sư cho rằng đó là vi phạm nghiêm trọng tố tụng và vụ án đã bị huỷ. Ví dụ như vụ “Nguyễn Đăng Khoa Cố ý gây thương tích”.

  1. Nghị án và tuyên án:

5.1. Nghị án

Không ai được vào phòng nghị án khi Hội đồng xét xử đang nghị án. Khi bắt đầu, Chủ tọa phiên tòa, phải phổ biến nội dung nghị án với đầy đủ các nội dung cần nghị án thông qua diễn biến của phiên tòa. Khi nghị án, chủ tọa phiên tòa cần nêu rõ từng vấn đề nghị án như:

– Tội danh;

– Điều khoản áp dụng;

– Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng;

– Hình phạt, vấn đề bồi thường thiệt hại;

– Xử lý vật chứng của vụ án;

– Án phí và quyền kháng cáo bản án.

Lưu ý, đối với mỗi vấn đề, Chủ tọa nêu nội dung cần thảo luận. Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định Thẩm phán biểu quyết sau cùng, chứ không quy định Chủ tọa phiên tòa phát biểu thảo luận sau cùng. Vì vậy, Chủ tọa phiên tòa có thể nêu quan điểm của mình trước hoặc sau khi Hội thẩm có ý kiến. Khi có vấn đề thảo luận chưa thống nhất, thì cần thẳng thắn trao đổi, Chủ tọa phải có trách nhiệm giải thích các quy định của pháp luật đối với các hội thẩm.

Cùng với việc chuẩn bị nội dung và chương trình nghị án, Chủ tọa cần chuẩn bị các văn bản pháp luật cần thiết có liên quan đến nội dung vụ án, để nếu cần thiết thì có thể tra cứu ngay phục vụ cho việc nghị án.

Một số tình huống có thể gặp khi nghị án:

– Nếu qua xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, thì Hội đồng xét xử phải thảo luận về việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (nếu căn cứ khởi tố đã rõ) hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án (nếu căn cứ khởi tố vụ án chưa rõ, cần xác minh thêm). Nếu ra quyết định khởi tố vụ án, về hình thức phải ghi là quyết định khởi tố vụ án, nhưng trong quyết định có thể ghi là để điều tra về hành vi phạm tội cụ thể của một người nào đó.

– Giải quyết việc Viện kiểm sát rút quyết định truy tố tại phiên tòa: Sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn, Hội đồng xét xử vẫn thảo luận toàn bộ vụ án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận một phần việc rút truy tố đó. Viện kiểm sát rút quyết định truy tố hoặc quyết định truy tố về tội danh nhẹ hơn thường thể hiện ở một số trường hợp sau:

+ Vụ án có một bị cáo và một hành vi phạm tội, tại phiên tòa Viện kiểm sát kết luận về tội danh nhẹ hơn;

+ Một bị cáo có nhiều hành vi phạm một tội, Viện kiểm sát rút bớt các hành vi bị truy tố;

+ Một bị cáo phạm nhiều tội, Viện kiểm sát rút truy tố về một tội;

+ Vụ án có nhiều bị cáo, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với một vài bị cáo;

+ Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố, tức là rút toàn bộ Cáo trạng trước khi nghị án.

Trong những trường hợp trên, đặc biệt là trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng (người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…) trình bày ý kiến của mình về việc rút quyết định truy tố của đại diện Viện kiểm sát. Khi nghị án Hội đồng xét xử vẫn phải giải quyết tất cả những vấn đề của vụ án. Nếu việc rút một phần bản Cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở thì Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Nếu việc rút toàn bộ quyết định truy tố là có cơ sở thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội. Nếu việc rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố là không có cơ sở thì Hội đồng xét xử cần quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên để xem xét việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới. Nếu Viện kiểm sát cấp trên vẫn đồng ý với việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới thì Viện kiểm sát cấp trên sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu Viện kiểm sát  cấp trên đồng ý với kiến nghị của Toà án thì sẽ ra quyết định huỷ bỏ quyết định rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố của Viện kiểm sát  cấp dưới và chuyển lại hồ sơ cho Toà án đã tạm đình chỉ vụ án. Toà án thụ lý và xét xử trong thời hạn 30 ngày theo thủ tục chung.

– Giải quyết trường hợp hoãn phiên tòa để trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

+ Khi cần xem xét những chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên toà được. Ví dụ: Tại phiên tòa, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại xuất trình các chứng cứ, tài liệu chưa được cơ quan Điều tra thu thập, các chứng cứ này có thể làm thay đổi nội dung cơ bản của vụ án nhưng Viện kiểm sát không chấp nhận, Hội đồng xét xử phải thảo luận và quyết định hoãn phiên tòa để yêu cầu điều tra bổ sung.

+ Khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác nặng hơn hoặc có đồng phạm khác:

 Theo Điều 196 Bộ luật hình sự, thì Tòa án không được xét xử về tội nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát  đã  truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Cho nên, thông qua việc xét hỏi tại phiên toà, có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác nặng hơn hoặc phát hiện đồng phạm khác trong một số trường hợp cần phải truy tố trong cùng một vụ án thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa và yêu cầu điều tra bổ sung.

+ Khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:

Đây là những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố. Ví dụ: Sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố, Viện kiểm sát đã khởi tố thêm tội và truy tố luôn. Trong trường hợp này lẽ ra Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ lại cơ quan Điều tra để điều tra và kết luận điều tra bổ sung về hành vi bị khởi tố thêm sau đó hồ sơ mới được chuyển lại Viện kiểm sát để làm Cáo trạng truy tố. Đây là những vấn đề bắt buộc mà các cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện thì coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Trong các trường hợp nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Hồ sơ được chuyển cho Viện kiểm sát để quyết định việc điều tra bổ sung. Việc yêu cầu điều tra bổ sung phải được lập biên bản tại phòng nghị án như biên bản nghị án. Nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mình mà thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án, quyết định chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

– Các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

Hội đồng xét xử cần thảo luận xem xét trong vụ án các bị cáo có những tình tiết tăng nặng ngoài các tình tiết định khung hình phạt hay không và gồm những tình tiết nào? Cần lưu ý theo quy định tại khoản 2 Điều 48 BLHS thì “những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt”.

Đối với các tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét kỹ càng bảo đảm nguyên tắc “có lợi cho bị cáo”, ngoài những tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 thì cũng cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ khác như quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS, nhưng phải được ghi nhận cụ thể trong bản án. Cũng cần lưu ý theo quy định tại khoản 3 Điều 46 “Những tình tiết giảm nhẹ được BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt”.

– Việc quyết định hình phạt:

Việc quyết định hình phạt, cần phải căn cứ vào các quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự đó là: căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân vị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Nếu bị cáo phạm nhiều tội hoặc ngoài tội phạm bị xét xử đối với bị cáo còn có bản án khác có hiệu lực pháp luật thì Hội đồng xét xử thảo luận và biểu quyết hình phạt của từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều bản án theo quy định chung. Nếu vụ án có nhiều bị cáo, Hội đồng xét xử phải thảo luận và biểu quyết hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo.

Cần chú ý quy định tại Điều 53 “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm” là:

“Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.”

Việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, phải có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự. Nếu cho bị cáo hưởng án treo, cũng cần xem xét thoả mãn các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Sau khi quyết định hình phạt tù, Hội đồng xét xử phải tính thời hạn chấp hành hình phạt tù. Nếu bị cáo đang bị tạm giam thì quyết định tiếp tục giam để bảo đảm thi hành án. Nếu bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách, khi tổng hợp hình phạt cần lưu ý xem bị cáo có bị tạm giam ở vụ án trước hay không để trừ thời gian tạm giam ở vụ án trước cho bị cáo. Nếu bị cáo được hưởng án treo cần lưu ý tính thời gian thử thách đối với bị cáo đã bị tạm giam thì phải áp dụng như hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2007 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao và công văn số 99 ngày 01/07/2009 của TAND tối cao. Ví dụ: Bị cáo đã bị tạm giam sáu tháng. Tòa án xử phạt bị cáo hai năm tù và xét thấy có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS để cho hưởng án treo. Khi ấn định thời gian thử thách trong trường hợp này là ba năm [(02 năm – 06 tháng) x 2]. Khi quyết định, Tòa án ghi: “… xử phạt bị cáo hai năm tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là ba năm, kể từ ngày…”. Nếu bị cáo đang tại ngoại mà cần phải bắt giam bị cáo thì Hội đồng xét xử quyết định bắt tạm giam bị cáo theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự và được ghi trong biên bản nghị án và thực hiện bằng một quyết định riêng. Nếu trả tự do cho bị cáo cần tuân thủ đúng các quy định tại Điều 227 Bộ luật tó tụng hình sự.

Ngoài ra Hội đồng xét xử cần xem xét các vấn đề bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo đúng các quy định của pháp luật.

– Lập biên bản nghị án:

Sau khi đã thảo luận Hội đồng xét xử quyết định bằng cách biểu quyết từng vấn đề như:

+ Tội danh;

+ Điều luật áp dụng;

+ Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự;

+ Hình phạt;

+ Vấn đề bồi thường thiệt hại;

+ Xử lý vật chứng, án phí…

 Về nguyên tắc khi biểu quyết Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng và các vấn đề được quyết định theo đa số. Nếu thành viên nào có ý kiến thiểu số thì ý kiến đó được đưa ghi vào biên bản nghị án hoặc người đó có thể trình bày bằng văn bản lưu trong hồ sơ.

Biên bản nghị án phải ghi rõ:

+ Tên vụ án, tội danh Viện kiểm sát truy tố, theo điều khoản, điều nào của Bộ luật hình sự;

+ Ghi rõ họ tên của thành phần Hội đồng xét xử theo thứ tự Chủ tọa, Hội thẩm. Phải ghi rõ đầy đủ kết quả biểu quyết về từng vấn đề như:

+ Tội danh, điểm, khoản, điều luật áp dụng;

+ Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;

+ Nếu bị cáo không phạm tội thì ghi rõ ý kiến thảo luận về chứng cứ xác định bị cáo không phạm tội và khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo;

+ Hình phạt áp dụng, cách tính thời hạn tù, việc bắt giam hay trả tự do cho bị cáo ngay sau khi tuyên án;

+ Vấn đề bồi thường thiệt hại;

+ Xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký đầy đủ vào biên bản nghị án.

Lưu ý, việc ghi đầy đủ nội dung trong biên bản nghị án có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì các quyết định trong bản án thực chất là sao chép lại của quyết định nghị án. Do vậy, nếu trong Biên bản nghị án không ghi đầy đủ mà phần quyết định của bản án có sai sót thì không thể khắc phục sửa chữa được. Nếu thiếu một trong các chữ ký của thành viên Hội đồng xét xử thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trong trường hợp thông qua nghị án, Hội đồng xét xử phải ra bản án theo ý kiến đa số của Hội đồng xét xử, nếu Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa đã làm hết trách nhiệm mà đa số Hội thẩm vẫn quyết định mà Thẩm phán cho là không đúng pháp luật không thuyết phục được… thì cũng phải ghi rõ trong biên bản nghị án hoặc bằng văn bản riêng đưa vào hồ sơ vụ án. Ngay sau khi tuyên án xong, phải báo cáo ngay với Chánh án để trao đổi với Viện kiểm sát để kháng nghị. Nếu Viện kiểm sát cùng cấp không kháng nghị thì Toà án hoặc Thẩm phán xử vụ án đó phải báo cáo lên Tòa án cấp trên, Viện kiểm sát cấp trên để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm để khắc phục sai lầm đó.

5.2. Tuyên án

Việc tuyên án là nhằm công bố bản án và các quyết định khác của Hội đồng xét xử một cách công khai trước phiên toà. Qua đó bị cáo và những người tham gia tố tụng khác biết được bản án hoặc những quyết định khác của Hội đồng xét xử về những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trên cơ sở đó họ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Khi tuyên án Chủ tọa hoặc có thể một thành viên của Hội đồng xét xử tuyên đọc nguyên văn bản án. Nếu bản án dài có thể các thành viên Hội đồng xét xử thay nhau đọc. Về nguyên tắc mọi người có mặt trong phòng xử án phải đứng dậy nghe tuyên đọc bản án, nếu bản án dài thì sau phần mở đầu Hội đồng xét xử có thể cho mọi người ngồi để nghe bản án, riêng các bị cáo vẫn phải đứng nghe tuyên toàn bộ bản án.

Lưu ý, khi tuyên án, người đọc bản án phải thể hiện sự đàng hoàng, trang nghiêm, đọc bản án cần dõng dạc, dứt khoát, phản ánh chính xác nội dung của bản án và các quyết định của Hội đồng xét xử. Sau khi tuyên án xong, Chủ tọa phiên tòa nên giải thích cho bị cáo và những người tham gia tố tụng biết quyền kháng cáo, thể thức kháng cáo, việc chấp hành bản án, giải thích về chế định án treo, nghĩa vụ của người được hưởng án treo trong thời gian thử thách… Nếu Hội đồng xét xử ra quyết định bắt giam bị cáo hay trả tự do cho bị cáo ngay sau khi tuyên án, Chủ tọa phiên tòa cũng phải công bố và cho thi hành ngay những quyết định đó đối với bị cáo.

Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phiên tòa, yêu cầu Công an dẫn giải các bị cáo về trại giam nếu bị cáo bị tạm giam hoặc bị bắt tạm giam tại phiên tòa. Nếu bị cáo được trả tự do ngay thì cần giải thích họ phải quay lại trại giam để làm các thủ tục cần thiết và nhận lại tài sản lưu ký nếu có.

Để thống nhất trong quá trình điều khiển phiên tòa, cũng như cách viết bản án hình sự sơ thẩm, qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng như tham khảo ý kiến của một số tác giả có kinh nghiệm trong công tác xét xử, chúng tôi nêu nội dung Đề cương điều khiển phiên tòa như sau:

Về đề cương điều khiển phiên tòa:

1- Phần thủ tục bắt đầu xét xử

– Thư ký bấm chuông hoặc mời Hội đồng xét xử vào phòng xử án.

– Hội đồng xét xử vào phòng xử án (nên nhắc Kiểm sát viên phải vào trước chứ không vào cùng Hội đồng xét xử).

– Thư ký phiên tòa yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy.

– Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và mời mọi người trong hội trường xét xử ngồi xuống.

– Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử (khi đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, yêu cầu các bị cáo đứng dậy). Nếu vụ án có các phóng viên, báo đài đến dự và đưa tin phiên tòa thì Chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu phóng viên xuất trình thẻ nhà báo, giấy giới thiệu cử đi công tác và phải hoạt động theo Luật báo chí, Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho các phóng viên tác nghiệp nhưng phải tôn trọng nội quy của phiên tòa.

– Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Thư ký phiên tòa, báo cáo danh sách những người được triệu tập đến phiên tòa, cùng sự vắng mặt và có mặt của họ, lý do của sự vắng mặt.

– Chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước, lý lịch của bị cáo cùng những người tham gia tố tụng khác được triệu tập đến phiên tòa.

*Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

+ Đối với bị cáo, theo Điều 50 và 188 BLTTHS thì bị cáo có quyền và nghĩa vụ sau:

Về quyền bao gồm các quyền:

– Được nhận bản kết luận điều tra, bản Cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập của Tòa án. (Các quyền này, các bị cáo phải được nhận trong giai đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử). Khi giới thiệu phần này cần hỏi luôn bị cáo xem họ đã nhận được các văn bản, quyết định trên hay chưa?;

– Được tham gia phiên tòa;

– Được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;

– Được đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu liên quan đến vụ án để bảo vệ quyền lợi của chính mình;

– Tự bào chữa, hoặc nhờ người bào chữa (Trong trường hợp có người bào chữa thì bị cáo (các bị cáo) vẫn  có quyền bổ sung hoặc từ chối nội dung mà  người bào chữa  đã bào chữa cho mình);

– Giới thiệu người bào chữa cho bị cáo biết và hỏi bị cáo xem có tiếp tục nhờ người bào chữa cho mình do Tòa án chỉ định hoặc do bị cáo hay gia đình bị cáo đã mời;

– Trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa;

– Được nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án;

– Kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật;

– Được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Về nghĩa vụ của bị cáo tại phiên tòa xét xử:

– Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án;

– Bị cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ được tiếp xúc với người bào chữa. Việc tiếp xúc với những người khác phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa;

– Bị cáo không bị tạm giam phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án;

– Bị cáo phải tôn trọng nội quy của phiên tòa;

– Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

* Đối với những người tham gia tố tụng khác:

– Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử và danh sách những người được triệu tập đến phiên tòa, chủ tọa phiên tòa lần lượt giải thích quyền và nghĩa vụ của họ theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như: Người bị hại (Điều 51); Nguyên đơn dân sự (Điều 52); Bị đơn dân sự (Điều 53); Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 54); Người làm chứng (Điều 55) (Lưu ý đối với người làm chứng bao giờ cũng yêu cầu họ có lời cam đoan trước phiên tòa về lời khai của mình); Người giám định (Điều 60); Người phiên dịch (điều 61).

* Hết phần giải thích quyền và nghĩa vụ, Chủ tọa phiên tòa  giới thiệu thành phần của Hội đồng xét xử (nếu có Thẩm phán và Hội thẩm dự khuyết thì giới thiệu và quy định chỗ ngồi của họ vì họ cần phải có mặt trong suốt thời gian xét xử);

– Giới thiệu Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (nếu có Kiểm sát viên dự khuyết thì giới thiệu và quy định chỗ ngồi của họ, vì họ cũng cần phải có mặt trong suốt thời gian xét xử);

– Giới thiệu Thư ký Tòa án;

– Sau khi giới thiệu xong cần hỏi các bị cáo, và những người tham gia phiên tòa được triệu tập, xem có ai xin thay đổi Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa hay không? Nếu có thì hỏi rõ lý do xin thay đổi (Lưu ý không phải người tham gia tố tụng nào cũng được quyền xin thay đổi thành phần Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa. Theo quy định của BLTTHS chỉ có Người bị hại; Nguyên đơn dân sự; Bị đơn dân sự; Người bào chữa; Người bảo vệ quyền lợi của đương sự);

– Hỏi Kiểm sát viên, người bào chữa có đề nghị thay đổi ai trong những người tiến hành tố tụng không?

– Hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra để xem xét hay không?

– Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt, thì Chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

Nếu trường hợp có người xin thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký hoặc xin hoãn phiên tòa, thì Hội đồng phải vào hội ý, yêu cầu người bị xin thay đổi trình bày quan điểm của mình về việc bị đề nghị thay đổi, nếu thấy lý do xin thay đổi và xin hoãn phiên tòa không có căn cứ  thì Hội đồng xét xử vào công bố việc không chấp nhận lý do xin thay đổi người tiến hành tố tụng hay việc xin hoãn phiên tòa, và phiên tòa vẫn tiếp tục thì Chủ tọa phiên tòa tuyên bố chuyển sang phần xét hỏi. Nếu chấp nhận yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng hoặc yêu cầu xin hoãn phiên tòa thì phải tuyên bố hoãn phiên tòa. Thời gian hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 194 BLTTHS là không quá 30 ngày.

2- Phần xét hỏi tại phiên tòa

– Đề nghị Kiểm sát viên đọc bản Cáo trạng;

– Tiến hành xét hỏi (theo đề cương xét hỏi đã chuẩn bị);

– Nếu việc xét hỏi đã đầy đủ thì Chủ tọa phiên tòa vẫn cần phải hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác xem họ có cần hỏi thêm vấn đề gì nữa không. Nếu có người đề nghị mà Hội đồng xét xử thấy việc xét hỏi thêm là cần thiết thì Chủ tọa phiên tòa cho xét hỏi tiếp. Nếu không có ai đề nghị xét hỏi thêm thì Chủ tọa phiên tòa tuyên bố chuyển sang phần tranh luận.

3- Tranh luận tại phiên tòa

– Đề nghị Kiểm sát viên trình bày lời luận tội;

– Đề nghị người bào chữa trình bày lời bào chữa. Nếu có nhiều luật sư cùng bào chữa cho một bị cáo thì thường họ có sự phân công ai bào chữa trước, ai bào chữa sau, Hội đồng xét xử nên chấp nhận sự phân công của họ. Nếu vụ án có nhiều bị cáo, có nhiều luật sư thì việc yêu cầu ai bào chữa trước, ai bào chữa sau, do Chủ tọa phiên tòa quyết định. Nên để cho tất cả người bào chữa trình bày hết lời bào chữa cho tất cả các bị cáo, sau đó Chủ tọa phiên tòa hỏi từng bị cáo xem họ có bổ sung gì thêm không.

– Bị cáo không có người bào chữa thì tự mình trình bày lời bào chữa;

– Những người tham gia tố tụng khác được triệu tập đến phiên tòa, nếu có người bảo vệ quyền lợi của cho họ thì người này được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích cho họ, còn họ có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.

* Đối đáp:

– Đề nghị Kiểm sát viên đáp lại ý kiến bào chữa của người bào chữa, của bị cáo. Nếu Kiểm sát viên từ chối đáp lại ý kiến bào chữa thì Chủ tọa phiên tòa phải nhắc và yêu cầu Kiểm sát viên thực hiện theo đúng quy định tại Điều 218 BLHS và theo tinh thần tranh tụng như Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị đã yêu cầu, không được hạn chế thời gian tranh tụng.

– Người bào chữa đáp lại ý kiến của Kiểm sát viên;

– Những người tham gia tố tụng khác được triệu tập đến phiên tòa hoặc người đại diện hợp pháp của họ đáp lại ý kiến của Kiểm sát viên về những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của mình.

– Sau khi Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, thì Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần tranh luận.

Tuy nhiên, trong trường hợp qua tranh luận, mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.

* Bị cáo nói lời sau cùng. Chủ tọa không hạn chế thời gian, nhưng cần nhắc bị cáo nói ngắn gọn, đúng trọng tâm. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng trong việc xét xử vụ án thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại phần xét hỏi.

4- Nghị án

Hội đồng xét xử phải tuyên bố thời gian nghị án, ngày giờ tuyên án để những người tham gia phiên tòa biết (Nội dung của nghị án đã được phân tích tại phần trên).

5- Tuyên án

Cần thực hiện theo đúng quy định tại Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự là:

“Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.

Nếu bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch đọc lại cho bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà bị cáo biết”.

 

BÀI 3:

KỸ NĂNG ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

                                                                                                                     

  1. I. ĐỊNH TỘI DANH

1.1. Khái niệm định tội danh

Trong lý luận hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được hiểu là một quá trình đa dạng và phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn nhất định như: giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của văn bản pháp luật về không gian và thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt… Trong đó, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật. Định tội danh còn là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự khác và pháp luật tố tụng hình sự.

Nếu chúng ta hiểu rằng BLHS đánh giá về mặt pháp lý của Nhà nước đối những hành vi nguy hiểm cho xã hội, việc thực hiện tội phạm là thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã bị pháp luật hình sự cấm, thì định tội danh chính là xác định sự phù hợp của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong pháp luật hình sự. Như vậy, định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.

Có nhiều dạng định tội danh khác nhau: chính thức và không chính thức; trong khoa học và trong hoạt động thực tiễn; định tội danh của những người thực hiện chức năng tố tụng khác nhau. Tuy nhiên, định tội danh của người có chức năng pháp lý, làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định đối với cá nhân hoặc tổ chức là quan trọng nhất. Vì vậy, trong trường hợp này, định tội phải được thực hiện trong phạm vi và giới hạn do luật quy định.

Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn do pháp luật quy định.

Từ khái niệm định tội danh trên, có thể xác định việc định tội danh bao gồm ba quá trình sau:

1- Xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện trên thực tế. Quá trình này bao gồm các hoạt động chứng minh và thực hiện các biện pháp tố tụng khác theo quy định của BLTTHS;

2- Nhận thức đúng đắn quy định của BLHS về cấu thành tội phạm tương ứng bao gồm cả các yếu tố khách quan và chủ quan của tội phạm. Để thực hiện được tốt hơn quá trình này, chủ thể định tội danh phải được đào tạo, bồi dưỡng về mặt pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và nhận thức xã hội sâu sắc;

3- Xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể được thực hiện và cấu thành tội phạm tương ứng.

Ba quá trình trên được phân tích độc lập với nhau về mặt lý thuyết; nhưng trong thực tế nó liên quan chặt chẽ với nhau, quan hệ qua lại và hòa quyện với nhau thành một quá trình thống nhất được đồng thời thực hiện trong cả quá trình định tội danh mà không tách rời nhau.

1.2. Nội dung định tội danh

Áp dụng pháp luật là một quá trình gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Trong áp dụng pháp luật hình sự, định tội danh và quyết định hình phạt là các giai đoạn quan trọng, cơ bản của quá trình đó. Vậy việc định tội danh bao gồm những nội dung gì là một câu hỏi cần được xác định cụ thể.

Việc thực hiện đồng thời cả ba quá trình trong việc định tội danh nhằm đi đến những quyết định sau đây:

– Hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không. Hay nói cách khác, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự có phạm tội hay không. Để trả lời câu hỏi này, ngoài các yếu tố khác, chủ thể định tội danh phải căn cứ vào khái niệm chung của tội phạm cũng như các quy phạm cụ thể quy định về tội phạm. Thông thường trong các trường hợp này, cần phải căn cứ vào đường lối xử lý (Điều 3); các trường hợp hành vi có tính nguy hiểm không đáng kể (khoản 3 Điều 8 BLHS); quy định về miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25, Điều 69 BLHS)…

– Xác định tội danh đối với hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, xác định xem người bị truy cứu trách nhiệm hình sự phạm tội gì, điều luật nào của BLHS  quy định về tội đó.

Thông thường, một hành vi cấu thành một tội phạm nhưng cũng có trường hợp một hành vi cấu thành nhiều tội phạm. Cũng có những trường hợp có sự tranh chấp về các cấu thành khác nhau về hành vi phạm tội thì chủ thể định tội danh cần xác định cụ thể cấu thành tội phạm nào phù hợp nhất với hành vi phạm tội được thực hiện để xác định tội danh cho chính xác. Trong lý luận về Luật Hình sự, thông thường sự tranh chấp về tội danh được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

+ Nếu đó là quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng thì xác định tội danh theo cấu thành riêng. Ví dụ: hành vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây chết người (Điều 202) là trường hợp riêng của hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính (Điều 90). Hành vi này được định tội danh theo cấu thành riêng, tức tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ;

+ Nếu có sự tranh chấp giữa các cấu thành riêng với nhau cùng có dấu hiệu tăng nặng (hoặc cùng có dấu hiệu giảm nhẹ) đặc biệt thì xác định tội danh theo cấu thành nặng nhất (hoặc nhẹ nhất). Ví dụ: hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96) thì xác định hành vi cấu thành tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

+ Nếu có sự tranh chấp giữa cấu thành riêng với nhau vừa có dấu hiệu tăng nặng đặc biệt, vừa có dấu hiệu giảm nhẹ đặc biệt thì xác định tội danh theo cấu thành giảm nhẹ hơn. Ví dụ: hành vi giết trẻ em (điểm e khoản 1 Điều 93) trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) v.v…

Đồng thời với việc xác định tội danh, chủ thể xác định điều luật nào của BLHS quy định về trường hợp phạm tội đó. Thông thường tội phạm do các điều luật tương ứng của phần các tội phạm quy định. Nhưng cũng có những trường hợp còn do các quy định ở phần chung quy định như chuẩn bị phạm tội (Điều 17), phạm tội chưa đạt (Điều 18), đồng phạm (Điều 20) v.v…

– Xác định khung hình phạt: sau khi xác định tội danh, tức là xác định tội phạm được thực hiện được điều luật nào của BLHS quy định, chủ thể định tội danh tiếp tục xác định khung hình phạt cần áp dụng đối với người phạm tội. Để xác định khung hình phạt tăng nặng hay giảm nhẹ, trước hết hành vi của người phạm tội phải thoả mãn các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành cơ bản được quy định trong điều luật. Thông thường các cấu thành cơ bản được quy định trong khung 1 của điều luật. Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ. Ví dụ: cấu thành cơ bản của tội giết người được quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS, còn khung tăng nặng được quy định tại khoản 1 điều luật đó; cấu thành một số tội xâm phạm an ninh quốc gia.

Một điều cần chú ý là khi xác định khung hình phạt, việc định tội danh bao gồm cả việc xác định các điểm cụ thể được nhà làm luật quy định trong khung đó hình phạt đó.

1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh

Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng có ý nghĩa  chính trị – xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn.

– Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt Nhà nước của nhân dân ta đối với vấn đề đấu tranh với tình hình phạm tội. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh đạo luật hình sự trong khi định tội danh là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách của Nhà nước trong phòng chống tội phạm.

Do vậy, việc định tội danh đúng là biểu hiện của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà nước và công dân.

Định tội danh thể hiện việc đánh giá chính trị – xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định. Định tội danh đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội.

– Hậu quả của việc định tội danh rất phức tạp. Nhưng  hậu quả cơ bản nhất trong số đó là việc áp dụng hình phạt hoặc những biện pháp tác động khác do luật quy định. Do đó, việc định tội danh ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Việc định tội danh sai không chỉ làm cho việc quyết định hình phạt không đúng, không công bằng, mà còn áp dụng không có căn cứ, hoặc không áp dụng một loạt các hạn chế pháp lý khác (quyết định hình phạt bổ sung), áp dụng hoặc không áp dụng đặc xá, miễn trách nhiệm hình sự, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tính toán không đúng thời hiệu, án tích… Cần phải lưu ý rằng nếu do sai lầm trong việc định tội danh và sai lầm đó làm cho việc quyết định hình phạt không phù hợp với hành vi đã thực hiện, làm cho bị cáo phải gánh chịu, nếu có việc định tội danh đúng, thì sai lầm đó đã vi phạm một cách thô bạo các lợi ích hợp pháp của người bị kết án.

Cũng không kém phần nguy hại trong những trường hợp ngược lại, khi hành vi của người có lỗi cấu thành tội phạm nghiêm trọng hơn nhưng lại định tội danh theo tội nhẹ hơn. Trong trường hợp đó người có lỗi chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn hình phạt đáng lẽ người đó phải chịu theo luật, còn tội phạm lại được đánh giá nhẹ về đạo đức, chính trị và pháp lý một cách thiếu cơ sở. Điều đó làm giảm nhẹ hiệu quả của công tác đấu tranh với tình hình tội phạm và cùng lúc gây ra sự căm phẫn hợp pháp của nhân dân, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp. Rõ ràng đó là những vi phạm nghiêm trọng các đòi hỏi của nguyên tắc công bằng, pháp chế.

– Việc định tội danh đúng cũng có ý nghĩa tố tụng hình sự quan trọng. Định tội danh đúng làm cơ sở cho việc kết thúc điều tra, truy tố có cơ sở; là cơ sở để xác định các loại thẩm quyền; áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng (biện pháp ngăn chặn); áp dụng các thời hạn tố tụng… giúp cho các hoạt động tố tụng được thực hiện đúng đắn, bảo đảm lợi ích công dân.

– Từ góc độ tội phạm học, định tội danh đúng giúp cho việc thống kê, xác định chính xác tình hình tội phạm để trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình tội phạm và có biện pháp phòng ngừa phù hợp.

1.4. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh

1.4.1. Bộ luật hình sự

Pháp luật hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình định tội danh. Trước hết, pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội danh. Bởi vì bản chất của quá trình định tội danh là quá trình tìm sự giống nhau giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được xác định với các dấu hiệu tương ứng của cấu thành tội phạm do BLHS quy định. Như vậy, pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trong thực tế là tội phạm; hay nói cách khác, pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội vì pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm  mà nhờ đó ta xác định được sự phù hợp của các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể được coi là cơ sở thực tế của việc định tội danh.

Với ý nghĩa là cơ sở pháp lý của việc định tội danh, pháp luật hình sự quy định, liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội được đánh giá là hành vi phạm tội trong BLHS. Đó là sự liệt kê đầy đủ, thể hiện nguyên tắc “Chỉ người nào phạm tội đã được Luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Điều đó loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được phép mở rộng, thu hẹp hay có bất cứ hành vi sửa đổi nào theo ý chí của cơ quan, tổ chức hay cá nhân đó.

Nói tóm lại, cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh. Khi định tội, chủ thể chỉ việc lấy các quy định của BLHS làm căn cứ duy nhất để so sánh với hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế.

1.4.2. Các quy định pháp luật hình sự được áp dụng khi định tội danh

Kết quả của việc định tội danh là rút ra kết luận rằng hành vi nguy hiểm cho xã hội đang xử lý được quy phạm nào của BLHS quy định. Kết quả của việc định tội danh cần phải có sự viện dẫn điều khoản cụ thể của BLHS .

BLHS nước ta gồm hai phần là quy phạm pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần riêng. Trong đó phần chung nêu nhiệm vụ, nguyên tắc, chế định cơ bản của Luật Hình sự Việt Nam. Các quy định ở phần chung không nêu dấu hiệu cụ thể của bất kỳ hành vi phạm tội nào.

Phần các tội phạm nêu mô hình cụ thể của tội phạm và chế tài tương ứng đối với mỗi tội phạm được quy định đó. Phần chung và phần các tội phạm của BLHS có mối liên hệ mật thiết với nhau. Việc áp dụng phần các tội phạm phải dựa trên các luận điểm chung và nguyên tắc được quy định ở phần chung của BLHS. Tình tiết đó phải được cân nhắc khi tiến hành định tội danh đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Định tội danh có mục đích là trên cơ sở pháp lý cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một con người về hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Trong lĩnh vực pháp luật, định tội danh có nghĩa là lựa chọn một quy phạm pháp luật mà nó đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó. Quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm quy định trách nhiệm hình sự đối với mỗi hành vi phạm tội. Nhưng những quy định này phải dựa trên những nguyên tắc, điều kiện được nêu ra trong các quy phạm phần chung. Còn bản thân quy phạm pháp luật phần chung lại không có ý nghĩa nếu thiếu quy phạm pháp luật phần riêng. Quy phạm pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần riêng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể thiếu trong định tội danh với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Như vậy, khi tiến hành định tội danh đối với mỗi hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải căn cứ vào cả quy định phần chung và quy định phần các tội phạm của BLHS, đồng thời phải viện dẫn một cách chính xác và đầy đủ điều, khoản, điểm hay một số điều luật liên quan, bao quát được toàn bộ hành vi nguy hiểm cho xã hội được nêu trong phần các tội phạm của BLHS.

Khi áp dụng quy phạm pháp luật cần đặc biệt chú ý tới hiệu lực của điều khoản được viện dẫn về không gian và thời gian, trong đó có quy định về hiệu lực hồi tố của BLHS. Có vậy thì việc định tội mới đảm bảo có đủ cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó.

1.4.3. Cấu thành tội phạm – mô hình pháp lý của việc định tội danh

Định nghĩa về tội phạm cụ thể được nêu trong quy phạm pháp luật BLHS tồn tại như một mô hình về tội phạm làm cơ sở pháp lý cho việc định tội danh. Mô hình đó thể hiện dưới dạng một cấu thành cụ thể. Và sự đánh giá tội phạm về phương diện pháp lý của Nhà nước được thể hiện dưới dạng cấu thành tội phạm đó.

Cấu thành tội phạm bao gồm những dấu hiệu cần và đủ. Nó gồm những dấu hiệu cần vì nếu thiếu một trong các dấu hiệu đó thì cấu thành tội phạm không được xác định. Đồng thời đó cũng là những dấu hiệu đủ cho một cấu thành tội phạm vì không cần thêm một dấu hiệu nào cho bất cứ một cấu thành tội phạm nào vì nó đã được xác định và có đủ cơ sở để phân biệt với một cấu thành tội phạm cụ thể này với cấu thành tội phạm khác. Điều đó không loại trừ việc xác định các tình tiết thực tế khác nhau nhằm mục đích cá thể hoá hình phạt.

Cấu thành tội phạm là một sự trừu tượng mang tính khoa học, là mô hình chung nhất cho tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng loại. Bởi vậy, cấu thành tội phạm không đề cập tới tất cả các dấu hiệu, đặc điểm của tội phạm ấy, mà nó chỉ đề cập tới tất cả các dấu hiệu điển hình nhất, cần và đủ trong các hành vi tội phạm cùng loại đó và thể hiện bản chất của tội phạm đó. Đó là những dấu hiệu tối cần thiết cho những hành vi mà người làm luật dự trù cho mô hình tội phạm trong điều luật. Trong điều kiện đó, mô hình tội phạm phải đảm bảo tính dễ hiểu không chỉ đối với cán bộ pháp lý, mà còn đối với mọi công dân khác nhằm thực hiện nhiệm vụ của BLHS trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Điều đó cho chúng ta hiểu quan hệ giữa định nghĩa về một loại tội phạm với một loại tội phạm là quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái đơn nhất.

Như vậy làm rõ định nghĩa về cấu thành tội phạm cho chúng ta hiểu trong một vụ án việc xác định các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là cần và đủ cho việc định tội danh. Bên cạnh đó, để giải quyết vụ án cụ thể còn có nhiều các tình tiết khác có ý nghĩa pháp lý như cá thể hoá hình phạt, xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội… Nhưng trong một vụ án việc xác định các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là đủ cho việc định tội đối với một hành vi phạm tội cụ thể; việc làm sáng tỏ tình tiết khác sẽ nằm ngoài giai đoạn định tội danh.

Cấu thành tội phạm là mô hình pháp luật của các tội phạm thuộc một loại tội nhất định, vì nó bao gồm những dấu hiệu cần thiết điển hình và cơ bản nhất của tội phạm. Ở đây cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn cơ sở thực tế để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người là việc thực hiện hành vi chứa dựng các yếu tố cấu thành tội phạm. Điều đó loại trừ nguyên tắc tương tự trong pháp luật hình sự, đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong pháp luật hình sự, đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành trên cơ sở pháp luật, ý thức pháp luật, cho phép Toà án được xem xét đầy đủ các tình tiết của vụ án.

Như vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở duy nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, từ góc độ lập pháp, người làm luật cần quy định chính xác, cụ thể, xác định rõ ràng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để có thể chứng minh được trong thực tế và phân biệt với các cấu thành khác; từ góc độ áp dụng pháp luật, người định tội danh cần nhận thức chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.

1.5. Định tội danh theo các yếu tố của cấu thành tội phạm

Tội phạm là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, thế nhưng mỗi yếu tố lại có ý nghĩa riêng và có thể tách ra nghiên cứu một cách độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Vì vậy, trong khoa học pháp lý hình sự khi nghiên cứu quá trình định tội danh người ta tách riêng xem xét việc định tội danh theo từng nhóm dấu hiệu nêu trên của tội phạm.

Theo truyền thống, việc định tội danh được tiến hành theo các nhóm yếu tố đặc trưng của cấu thành tội phạm. Định tội danh theo các nhóm yếu tố khách quan của tội phạm (khách thể và mặt khách quan) và định tội danh theo các nhóm yếu tố chủ quan của tội phạm (chủ thể và mặt chủ quan).

1.5.1. Định tội danh theo khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm có vai trò rất lớn trong quá trình định tội danh qua việc xác định khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp. Nó cho ta định hướng tìm trong hệ thống pháp luật hình sự một quy phạm cần thiết.

– Khách thể chung của tội phạm là toàn bộ quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội. Các thành phần cơ bản của khách thể chung của tội phạm được quy định trong Điều 8 BLHS. Đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ Nhà nước, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Ý nghĩa pháp lý của khách thể chung đối với việc định tội danh thể hiện ở chỗ: căn cứ vào khách thể chung người định tội xác định người thực hiện hành vi có phạm tội hay không.

– Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm phạm của một nhóm tội phạm. Nó được xác định qua tên gọi của chương trong BLHS. Mỗi chương có thể là một khách thể cùng loại hay một số khách thể cùng loại. Ngoài tên gọi của chương, khách thể loại còn có thể được xác định qua việc chỉ dẫn các mục hoặc các quy định trong các điều luật cụ thể. Người làm luật của nước ta đã căn cứ vào khách thể loại để phân các tội phạm thành các chương trong phần các tội phạm.

Ý nghĩa pháp lý của khách thể loại đối với việc định tội thể hiện ở chỗ: căn cứ vào khách thể loại, người định tội danh xác định hành vi phạm tội được quy định ở chương nào của BLHS để làm cơ sở xác định cấu thành cụ thể ở bước tiếp theo. Trên thực tế, một hành vi phạm tội thường xâm phạm nhiều khách thể loại khác nhau và người làm luật cũng có cách xử lý khác nhau đối với trường hợp đó. Ví dụ rõ nhất là tội cướp tài sản: hành vi cướp cùng một lúc xâm hại hai khách thể loại tính mạng, sức khoẻ của con người và quan hệ sở hữu. Thế nên hành vi đó có thể phạm hai tội cướp tài sản và giết người (nếu là lỗi cố ý đối với cái chết hoặc hậu quả chỉ là gây thương tích, gây thiệt hại cho sức khoẻ). Vì vậy trong quá trình định tội danh việc xác định khách thể loại, khách thể nào là quan trọng, chủ yếu, thứ yếu để xác định nhóm tội phạm là cực kỳ quan trọng trong bước thứ hai của việc định tội theo khách thể của tội phạm.

– Khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể do hành vi phạm tội trực tiếp xâm phạm được Luật Hình sự bảo vệ. Căn cứ vào khách thể trực tiếp, người định tội xác định được cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội của người phạm tội.

Như vậy, từ góc độ định tội danh theo khách thể của tội phạm, quá trình xác định khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội phạm là quá trình tìm câu trả lời cho các câu hỏi người thực hiện hành vi có phạm tội hay không? Nếu có thì phạm loại tội nào, cụ thể là tội gì và từ đó tìm ra điều luật cụ thể cần áp dụng đối với người phạm tội.

Khi định tội cần phân biệt khách thể tội phạm với đối tượng của sự xâm hại của hành vi phạm tội. Đối tượng của tội phạm là những vật thể cụ thể thuộc thế giới vật chất mà hành vi nguy hiểm cho xã hội của kẻ phạm tội tác động đến. Đối tượng của tội phạm thường được quy định trong phần quy định của quy phạm pháp luật hình sự. Trong nhiều trường hợp việc liệt kê đầy đủ, chính xác đối tượng của sự xâm hại được dùng làm cơ sở để phân biệt cấu thành tội phạm này với cấu thành tội phạm khác. Theo quy định của pháp luật hình sự, đối tượng của tội phạm có ý nghĩa pháp lý khác nhau được thể hiện ở ba cấp độ trong xử lý tội phạm.

Thứ nhất, đối tượng tác động của tội phạm là yếu tố có ý nghĩa định tội.

Thứ hai, một số trường hợp đối tượng phạm tội là tình tiết định khung của tội phạm.

Thứ ba, trong các trường hợp, nếu không phải là yếu tố định tội danh, định khung hình phạt, việc xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

1.5.2. Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan là mặt bên ngoài của hành vi phạm tội do Luật Hình sự quy định. Theo quan điểm truyền thống, mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả nguy hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác nhau của đặc trưng cho mặt khách quan của tội phạm, đó là hoàn cảnh, thời gian, công cụ, phương tiện phạm tội…

– Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội trong quá trình định tội danh.

Hành vi phạm tội là hoạt động khách quan bên ngoài của người phạm tội. Hành vi được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Trong hành động, người phạm tội thực hiện những động tác cơ học của cơ thể mà luật cấm. Trong không hành động, người phạm tội không thực hiện những động tác mà mình có nghĩa vụ phải làm và có thể làm được.

Để định đúng tội danh việc xác định, phân loại được cấu thành tội phạm (cấu thành nào hành vi chỉ là hành động, cấu thành nào hành vi chỉ là không hành động, cấu thành nào là có cả hành động và không hành động) có ý nghĩa rất quan trọng.

Trong quá trình định tội danh, người tiến hành định tội danh phải chú ý, hành động tội phạm có thể là một động tác xảy ra một lần trong thời gian ngắn (như cướp giật tài sản của người khác trong khi đi đường) hoặc là tổng hợp các động tác như ở đa số các tội phạm. Nó có thể lặp đi lặp lại một thời gian kéo dài, hoặc cũng có thể là tác động trực tiếp của con người vào đối tượng của tội phạm, cũng có thể là tác động gián tiếp thông qua phương tiện kỹ thuật, máy móc, súc vật hay xử sự của người khác. Hành động có thể thể hiện qua lời nói hoặc việc làm.

– Xác định hậu quả của tội phạm trong quá trình định tội danh.

Hậu quả của tội phạm là những thay đổi trong thế giới khách quan do hành vi phạm tội gây ra đối với các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hậu quả của tội phạm có thể ở dạng vật chất tức là con người biết được bằng giác quan của mình như thiệt hại về tài sản, về tình trạng sức khoẻ… Hậu quả cũng ở dạng phi vật chất, con người có thể nhận thức được bằng con đường tư duy, như làm thiệt hại đến các quyền tự do công dân, gây mất trật tự, an ninh, làm ảnh hưởng đến an ninh…

Trong lý luận hình sự Việt Nam người ta căn cứ vào ý nghĩa của hậu quả phạm tội đối với việc định tội danh và hình thức cấu tạo của quy phạm pháp luật để phân chia thành các loại cấu thành tội phạm khác nhau:

Cấu thành vật chất, là cấu thành mà mặt khách quan bao gồm cả hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Để xác định là tội phạm hoàn thành khi định tội danh phải xác định tất cả các tình tiết đó.

Cấu thành hình thức là cấu thành có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Còn hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với việc định tội danh, tức là để định tội danh chỉ cần xác định hành vi là đủ.

Trong luật hình sự người ta phân biệt 3 hậu quả của tội phạm:

Thứ nhất: Hậu quả được quy định với tính cách là một yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Hậu quả tội phạm trong trường hợp này có ý nghĩa định tội. Để định tội danh đúng bắt buộc phải xác định hậu quả của tội phạm.

Thứ hai: Hậu quả của tội phạm tuy không có ý nghĩa định tội danh nhưng lại có ý nghĩa định khung.

Thứ ba: Hậu quả không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và không có ý nghĩa định khung tăng nặng cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quyết định hình phạt.

Từ cách phân chia đó, chúng ta thấy rằng để định tội danh người áp dụng luật chỉ cần xác định hậu quả thứ nhất và thứ hai. Thế nhưng để giải quyết đúng đắn toàn diện vụ án cần phải xác định mọi hậu quả của tội phạm. Bởi vì nếu không có ý nghĩa định tội danh thì ít nhất hậu quả của tội phạm cũng có ý nghĩa trong quyết định hình phạt, trong quyết định bồi thường thiệt hại.

– Xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong quá trình định tội danh.

Để xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm xảy ra cần phải xác định được các dấu hiệu sau:

– Nguyên nhân bao giờ cũng có trước, hậu quả có sau. Không thể có nguyên nhân xảy ra sau hoặc đồng thời với hậu quả. Dấu hiệu này tuy không giữ vai trò quyết định, nhưng là dấu hiệu nhận biết đầu tiên cho việc kiểm tra sự tồn tại của quan hệ nhân quả. Nếu xác định dấu hiệu này không thoả mãn thì có thể loại trừ được sự tồn tại quan hệ nhân quả. Đây chính là ý nghĩa thực tiễn của việc xác định dấu hiệu về thời gian.

– Hành vi trái pháp luật độc lập hoặc tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác đã làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Được coi là quan hệ có tính chất nội tại khi hậu quả nằm ngay trong hành vi, hành vi mang trong bản thân nó mầm mống sinh ra hậu quả. Chính hành vi, bằng sự vận động nội tại của nó trong những điều kiện nhất định sinh ra hậu quả.

Được coi là quan hệ có tính tất nhiên khi một hành vi, trong những điều kiện nhất định sẽ làm phát sinh hậu quả chứ không thể có hậu quả khác được. Toà án nhân dân tối cao qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, đã hướng dẫn chỉ khi nào hành vi có nhiều khả năng đưa lại hậu quả, thì hậu quả ấy mới có tính tất nhiên, và giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra mới coi là có quan hệ nhân quả.

Hay nói cách khác, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế nói trên của hành vi trái pháp luật. Trong cùng điều kiện như những điều kiện của trường hợp cụ thể mà hậu quả đã xảy ra, khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả trở thành hiện thực là tất nhiên, không tránh khỏi. Trong thực tiễn xét xử, đôi khi dễ quên dấu hiệu thứ ba này. Việc xét đến dấu hiệu thứ ba này rất quan trọng vì thực tế có thể có trường hợp hành vi của một người tuy có khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng khả năng đó chưa phát huy, thì hành vi trái pháp luật của người khác đã xen vào và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

– Hoàn cảnh, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội và việc định tội danh.

Hành vi phạm tội nào cũng được thực hiện trong một địa điểm, thời gian, hoàn cảnh nhất định, bằng những phương tiện, công cụ này hoặc công cụ khác. Các yếu tố này đều thuộc mặt khách quan của tội phạm nhưng ý nghĩa pháp lý của chúng về mặt định tội danh có khác nhau với những dấu hiệu đã trình bày ở trên.

1.5.3. Định tội danh theo chủ thể của tội phạm

– Xác định trường hợp một người không có năng lực trách nhiệm hình sự

Xác định một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự gồm:

+ Người đó đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác;

+ Mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.

Người không có năng lực trách nhiệm hình sự phải có cả hai yếu tố trên. Thiếu một trong hai yếu tố thì người thực hiện hành vi nguy hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

– Xác định tuổi của người phạm tội trong quá trình định tội danh.

Pháp luật hình sự nước ta quy định lứa tuổi tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. BLHS quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (khoản 1 Điều 12). Đây là một nguyên tắc chung. Như vậy, theo nguyên tắc này, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về bất kỳ một hành vi phạm tội nào được quy định trong BLHS.

Tuy nhiên, về thực tế trách nhiệm hình sự về một số tội phạm chỉ xuất hiện khi người phạm tội ở vào lứa tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên, thí dụ về tội trốn nghĩa vụ quân sự (Điều 259), tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp (Điều 252) và một số các tội khác pháp luật hình sự quy định một ngoại lệ trong nguyên tắc chung về lứa tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Khoản 2 Điều 12 BLHS quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

– Định tội danh đối với các tội phạm do chủ thể đặc biệt thực hiện.

Ngoài những đặc điểm đã nêu ở trên, trong quá trình định tội danh các hành vi nguy hiểm cho xã hội có một số đặc điểm cá nhân của người phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng. Muốn định tội danh các hành vi nguy hiểm cho xã hội của một người theo các điều luật về các tội phạm về chức vụ, các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân và một số tội phạm khác, ngoài đặc điểm có năng lực chịu trách nhiệm, lứa tuổi tối thiểu, chủ thể phải có một số những đặc điểm khác. Những đặc điểm này là cơ sở để coi bị cáo là một chủ thể đặc biệt của tội phạm. Như vậy, trong quá trình định tội danh các hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phân biệt những dấu hiệu đặc biệt chỉ có ở chủ thể của một số dạng tội phạm riêng biệt.

Trong pháp luật hình sự ở nước ta không có định nghĩa chung về chủ thể đặc biệt của tội phạm. Trong BLHS chỉ có những định nghĩa cụ thể về hai loại chủ thể đặc biệt của tội phạm: khái niệm người có chức vụ (Điều 277 BLHS) và khái niệm về những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ và trách nhiệm của quân nhân (Điều 315 BLHS).

Trong các trường hợp khác, ở phần quy định của các điều luật thuộc phần các tội phạm của BLHS chỉ đề cập tới những dấu hiệu riêng biệt có tính chất điển hình của chủ thể đặc biệt này hay chủ thể đặc biệt khác.

Khi không có các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm thì xuất hiện một nguyên tắc khác: Trong một số trường hợp khi không có các dấu hiệu đó thì hoàn toàn loại trừ trách nhiệm hình sự; còn trong trường hợp khác lại chỉ thay đổi việc định tội danh.

1.5.4. Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm

– Xác định hình thức lỗi trong quá trình định tội danh.

Nội dung của mặt chủ quan của tội phạm là quan hệ tâm lý của bị cáo đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà y thực hiện. Trong mặt chủ quan của tội phạm có lỗi (cố ý hoặc vô ý), động cơ và mục đích phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức và ý chí của kẻ phạm tội với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà y thực hiện.

Hình thức lỗi cố ý hay vô ý là sự kết hợp giữa nhận thức và ý chí đối với hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm. Khi định tội danh theo mặt chủ quan cần xác định nội dung yếu tố lý trí và ý chí đối với loại hành vi phạm tội cụ thể.

Khi xây dựng cấu thành tội phạm loại này hay loại khác, người làm luật đưa vào trong nội dung mặt chủ quan của tội phạm quan hệ tâm lý của bị cáo đối với tất cả các tình tiết thực tế mà những tình tiết ấy cũng được người làm luật nêu trong nội dung của khách thể và mặt khách quan của tội phạm. Nếu khi định tội danh không có sự trùng hợp trên cơ sở ấy giữa các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội với các dấu hiệu nói về mặt chủ quan của tội phạm thì không được định tội danh hành vi đó như một tội phạm thuộc dạng trên.

Nội dung của mặt chủ quan như một thành phần của tội phạm, hoàn toàn được quyết định bởi nội dung của khách thể và mặt khách quan của tội phạm. Tất cả những gì được nêu trong cơ cấu của khách thể và mặt khách quan tội phạm cần được phản ánh trong nội dung chủ quan của tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm được xác định thông qua yếu tố khách quan.

– Xác định động cơ và mục đích phạm tội trong quá trình định tội danh.

Mỗi một loại hành vi của con người trong xã hội đều do những động cơ hoặc mục đích nào đó quyết định. Là những dấu hiệu bắt buộc của một hành động có ý chí, động cơ và mục đích phạm tội là những yếu tố nằm trong nội dung của mặt chủ quan của tội phạm.

Động cơ, mục đích có ý nghĩa pháp lý khác nhau trong định tội danh. Đó có thể là dấu hiệu của tội phạm; cũng có thể chỉ là dấu hiệu định khung hay có ý nghĩa quyết định hình phạt. Vì vậy, dù thế nào thì xác định động cơ, mục đích phạm tội cũng có ý nghĩa pháp lý quan trọng.

1.6. Những sai sót thường gặp trong thực tiễn định tội danh ở các Tòa án

Nghiên cứu thực tiễn xét xử, ta thường thấy những sai sót phổ biến sau đây khi định tội danh:

– Một là, xác định không đúng hành vi phạm tội trên thực tế (do sai sót do chứng minh):

+ Thu thập chứng cứ không đầy đủ, thiếu khách quan, toàn diện;

+ Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong thu thập chứng cứ;

+ Đánh giá chứng cứ thiếu chính xác, thiếu khách quan, toàn diện;

+ Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong thu thập chứng cứ.

– Hai là, nhận thức không đúng hoặc không đầy đủ quy định pháp luật:

+ Nhận thức không đúng cấu thành tội phạm;

+ Nhận thức không chính xác các tình tiết cụ thể của cấu thành tội phạm.

– Ba là, so sánh không đúng sự tương quan giữa hành vi được xác định và các quy định của pháp luật về cấu thành tội phạm. Nhận định và kết luận thiếu thống nhất…

– Định tội danh sai quy trình: định tội, định khung nhẹ hơn để quyết định hình phạt nhẹ đối với bị cáo.

  1. II. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

2.1. Khái niệm quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là giai đoạn cuối cùng của áp dụng pháp luật hình sự, được Tòa án (với nghĩa là Hội đồng xét xử) thực hiện ngay sau việc định tội danh, định khung hình phạt. Quyết định hình phạt tức là việc Tòa án lựa chọn biện pháp trách nhiệm hình sự cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội trên cơ sở các căn cứ pháp luật quy định nhằm đạt được mục đích quy định.

Quyết định hình phạt có những đặc điểm sau đây:

– Quyết định hình phạt là giai đoạn áp dụng pháp luật sau cùng, liền ngay sau khi định tội, định khung hình phạt. Do đó, định tội đúng là điều kiện rất quan trọng để quyết định hình phạt đúng;

– Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất được quyết định hình phạt. Ngoài Tòa án, không ai có thể quyết định hình phạt đối với người phạm tội;

– Quyết định hình phạt được thực hiện trên cơ sở các căn cứ pháp luật quy định;

– Quyết định hình phạt mang tính tùy nghi cao: tùy nghi trong áp dụng (đối với hình phạt không bắt buộc); tùy nghi trong lựa chọn loại hình phạt áp dụng; tùy nghi trong quyết định mức hình phạt cụ thể; tùy nghi trong quyết định biện pháp chấp hành hình phạt…

2.2. Nội dung quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt bao gồm các nội dung (các bước) sau:

– Có áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội hay hay miễn trách nhiệm hình sự theo các căn cứ quy định tại Điều 25, Điều 69 BLHS? Trong thực tiễn thường có nhận thức sai lầm khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi chưa thực hiện việc định tội danh;

– Nếu quyết định người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, thì quyết định người đó có phải chịu hình phạt hay miễn hình phạt đối với người đó theo quy định tại Điều 69 BLHS…;

– Lựa chọn loại và mức hình phạt theo chế tài quy phạm pháp luật quy định về tội phạm (các căn cứ quyết định hình phạt, các quy định đặc biệt bổ sung chế tài như chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm, hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội…);

– Quyết định biện pháp chấp hành hình phạt (án treo, giao cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án…).

Bốn giai đoạn trên là một quy trình hoàn chỉnh quyết định hình phạt. Tuy nhiên, tùy theo trường hợp phạm tội cụ thể mà quy trình đó có thể cắt giảm. Ví dụ: khi đã xác định trường phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì nhìn chung không thể có các giai đoạn đầu; khi quyết định hình phạt tù trên 3 năm thì đương nhiên không có giai đoạn tiếp theo là quyết định biện pháp chấp hành hình phạt (án treo).

2.3. Các căn cứ quyết định hình phạt

Việc quyết định hình phạt phải được thực hiện theo các căn cứ được quy định trong BLHS. Những căn cứ đó bao gồm:

– Chế tài quy phạm pháp luật quy định về tội phạm. Trong đó chú ý: Chế tài lựa chọn và không lựa chọn (loại hình phạt); chế tài tùy nghi (tùy nghi áp dụng hay không, tùy nghi quyết định mức hình phạt trong khung…);

– Các căn cứ được quy định tại Điều 37 BLHS: tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân người phạm tội.

– Các căn cứ đặc biệt: đường lối xử lý (Điều 3 BLHS), miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25 BLHS); miễn hình phạt (Điều 57 BLHS); chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 52 BLHS); đồng phạm (Điều 53 BLHS); quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên (Điều 69, Điều 74 BLHS); quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Điều 47 BLHS)…

Khi quyết định hình phạt, các căn cứ quyết định hình phạt phải được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng một cách đầy đủ, toàn diện và biện chứng (trong từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể), không được bỏ sót hoặc đánh giá thiếu chính xác. Cần chú ý rằng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ quan trọng nhất của việc quyết định hình phạt; nhân thân người phạm tội cũng rất quan trọng.

2.4. Kỹ năng quyết định hình phạt

2.4.1. Quyết định hình phạt theo quy định chung

Cũng như định tội danh, để quyết định hình phạt, Tòa án cần thực hiện hai quy trình:

– Xác định các tình tiết của vụ án mà Tòa làm căn cứ quyết định hình phạt. Các tình tiết đó bao gồm các tình tiết liên quan đến tội phạm (cả các yếu tố khách quan và cả yếu tố chủ quan); liên quan đến nhân thân người phạm tội (thể hiện mức độ nguy hiểm cũng như khả năng cải tạo, giáo dục của họ);

– Nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật liên quan đến quyết định hình phạt như đã đề cập ở phần trên.

Tuy nhiên, việc thực hiện tốt hai quy trình trên chưa thể đảm bảo cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, phù hợp. Để hình phạt được áp dụng đạt được các mục đích quy định, đòi hỏi người áp dụng có nhận thức tổng hợp về trường hợp phạm tội, về nhu cầu xã hội, yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương… Ngoài nguyên tắc pháp chế, cần tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt khác như cá thể hóa hình phạt, nhân đạo, tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng của con người…

2.4.2. Quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt

– Trường hợp đồng phạm (Điều 53 BLHS): Điều luật không quy định giới hạn cứng, mà chỉ quy định nguyên tắc chung cho việc quyết định hình phạt; trong đó có nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự theo hai căn cứ riêng, đặc thù. Đó là: 1- Tính chất của đồng phạm (có tổ chức, đồng phạm thường, đồng phạm giản đơn, đồng phạm phức tạp…); 2- Mức độ tham gia phạm tội (vai trò tổ chức, chủ mưu, thực hành, xúi dục, giúp sức… của bị cáo trong vụ án).

Vì vậy, khi quyết định hình phạt, cần áp dụng các căn cứ chung và căn cứ riêng để quyết định cho phù hợp, hài hòa và hiệu quả.

– Trường hợp chuẩn bị phạm tội (khoản 1, 2 Điều 52 BLHS): Điều luật quy định mức hình phạt cao nhất đối với chuẩn bị phạm tội là 20 năm tù (nếu chế tài có hình phạt cao nhất là chung thân, tử hình) mà không quy định giới hạn tối thiểu hoặc bằng 1/2 mức phạt tù quy định (cả mức tối đa và tối thiểu, nếu là tù có thời hạn). Đây là giới hạn cao nhất mà luật định. Còn khi quyết định hình phạt Tòa án phải căn cứ cả vào các căn cứ chung, bao gồm cả quyết định hình phạt dưới khung.

Đề nghị lưu ý cân nhắc giới hạn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 17 BLHS (chỉ người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự) và chế tài các quy phạm quy định về từng tội phạm cụ thể để quyết định hình phạt cho phù hợp với chính sách hình sự nước ta.

– Trường hợp phạm tội chưa đạt (khoản 1, 3 Điều 52 BLHS): BLHS hình sự không loại trừ hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người phạm tội chưa đạt, nhưng giới hạn ở những trường hợp đặc biệt. Ví dụ: định giết nhiều người nhưng chỉ chết một người hoặc rất nhiều người bị thương tích rất nặng.

Đối với trường hợp BLHS quy định chế tài là tù có thời hạn, thì mức hình phạt đối với phạm tội chưa đạt (cả mức tối đa và mức tối thiểu) là không quá 3/4 mức phạt mà điều luật quy định.

Khi quyết định hình phạt đối với từng trường hợp cụ thể, cần cân nhắc mức độ phạm tội chưa đạt (chưa đạt chưa hoàn thành, chưa đạt hoàn thành), nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt. Ngoài ra cũng cần xem xét các căn cứ chung theo luật định.

2.4.3. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Do nguyên tắc quyết định hình phạt quy định trong BLHS nước ta là cộng toàn bộ các hình phạt mà không có thu hút (toàn bộ hay một phần). Cho nên, khi quyết định hình phạt, Tòa án cần chú ý cân nhắc các trường hợp cụ thể khác nhau để quyết định hình phạt đối với từng tội trước khi quyết định hình phạt chung.

Có thể phân biệt ba trường hợp như sau:

– Bị cáo thực hiện các hành vi phạm tội cấu thành các tội phạm khác nhau. Trường hợp này, việc quyết định hình phạt được thực hiện theo quy định chung;

– Bị cáo thực hiện một hành vi phạm tội cấu thành hai tội (ví dụ giết người để chiếm đoạt tài sản): cần cân nhắc quyết định hình phạt thông thường đối với tội nặng hơn; còn tội phạm đi kèm có thể cân nhắc để giảm nhẹ hơn;

– Thủ đoạn phạm tội đồng thời cấu thành một tội phạm khác. Ví dụ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng giết người cấu thành hai tội: tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Trong một số trường hợp, thậm chí thủ đoạn phạm tội còn đồng thời là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, trong trường hợp này cũng cần cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với tội phạm do thủ đoạn phạm tội cấu thành nên trước khi tổng hợp hình phạt chung để hình phạt thực chất phù hợp với tính chất, mức độ của tội phạm được thực hiện và nhân thân người phạm tội, đáp ứng nguyên tắc nhân đạo, nhầm đạt được mục đích hình phạt.

2.5. Những sai sót phổ biến trong quyết định hình phạt

Thực tiễn xét xử của các Tòa án quân sự cho thấy, trong quyết định hình phạt thường có những sai sót phổ biến sau đây:

– Quyết định hình phạt không phù hợp do đánh giá sai tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm;

– Quyết định hình phạt không phù hợp do đánh giá không đúng các yếu tố nhân thân người phạm tội; nhiều khi coi đặc điểm nhân thân là yếu tố quyết định, quan trọng hơn tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm;

– Quyết định hình phạt không phù hợp do nhận thức không chính xác quy định về chế tài, nhất là trong các trường hợp đặc biệt; có trường hợp máy móc khi áp dụng các tình tiết này;

– Quyết định hình phạt không phù hợp do bỏ sót tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng không đúng các tình tiết đó;

– Quyết định hình phạt không phù hợp do xác định hoặc đánh giá sai các tình tiết khách quan của vụ án liên quan đến quyết định hình phạt.

 

BÀI 4:

KỸ NĂNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay thì Tòa án có một vai trò hết sức quan trọng mà ở đó hoạt động của Tòa án biểu hiện rõ nhất quyền lực Nhà nước thông qua việc xét xử các loại vụ án: Dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và các nhiệm vụ khác mà pháp luật quy định. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự chúng ta nhận thấy: quá trình giải quyết vụ án trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó hoạt động xét xử các vụ án hình sự là hoạt động rất khó khăn và phức tạp; có quan hệ trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và là một vấn đề nhạy cảm, được dư luận, xã hội quan tâm.

Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định trình tự và các bước xét xử vụ án hình sự kể cả giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Trong đó đã quy định rõ về thẩm quyền của Tòa án các cấp và các bước giải quyết vụ án hình sự. Muốn giải quyết đúng đắn vụ án hình sự đòi hỏi các Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa cũng như các Hội thẩm nhân dân phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng như các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để có thể đưa ra một phán quyết công bằng và đúng pháp luật trên cơ sở nghiên cứu khách quan, toàn diện từng vụ án cụ thể. Để giúp các đồng chí hiểu rõ hơn về quy trình và các vấn đề liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong phạm vi bài giảng này tôi muốn giới thiệu đến các đồng chí nội dung: “Kỹ năng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”.

  1. NHẬN, THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ.
  2. Nhận đơn kháng cáo; hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị.
VBQPPL:

– BLTTHS năm 2003 (các điều 231, 232, 234, 239)

– Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Phần I).

Việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Tòa án cấp phúc thẩm được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.2 mục 3 Phần I của Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP như sau:

“3.2. Việc nhận đơn kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Tòa án cấp phúc thẩm.

a, Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm nhận được đơn kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) thì Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các công việc theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 này.

b, Trong trường hợp người kháng cáo đến Tòa án cấp phúc thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm giải thích cho họ biết là họ chỉ có quyền trình bày trực tiếp về việc kháng cáo với Tòa án cấp sơ thẩm”.

Trước hết, cán bộ thường trực Tòa hình sự – Tòa án cấp tỉnh khi nhận đơn kháng cáo cần nghiên cứu đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị để xác định xem kháng cáo, kháng nghị có hợp lệ không; chủ thể kháng cáo, kháng nghị có đúng không; thời gian kháng cáo, kháng nghị có đảm bảo không; lý do và yêu cầu kháng cáo, kháng nghị. Những công việc cần làm, kỹ năng thực hiện trong giai đoạn này như sau:

– Theo đó, trước tiên cần xác định chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn kháng cáo của mỗi loại chủ thể đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Để xác định đúng cần căn cứ vào Điều 231 BLTTHS; hướng dẫn tại mục 1 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP:

 “1. Về Điều 231 của BLTTHS

Chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn kháng cáo của việc kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm được xác định như sau:

1.1. Bị cáo, người đại diện hợp pháp (đại diện hợp pháp theo pháp luật) của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

1.2. Người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích cho bị cáo.

1.3. Người bị hại, người đại diện hợp pháp (hoặc đại diện theo pháp luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể ủy quyền cho người khác. Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự.

1.8. Người được Tòa án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.”

– Tiếp theo xác định chủ thể có quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 232 BLTTHS. Về nguyên tắc chung Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Kháng nghị của Viện kiểm sát phải làm bằng văn bản, có nêu rõ lý do và được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án (khoản 2 Điều 233 của BLTTHS). Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định (khoản 1 Điều 239 của BLTTHS). Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án (khoản 1 Điều 234 BLTTHS).

Tuy nhiên, cần phân biệt kháng nghị đối với quyết định nào của Tòa án cấp sơ thẩm mới được xem xét ở Tòa án cấp phúc thẩm. Vì vậy cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 2 Phần I Nghị quyết số 05/2005 như sau:

“…

2.1. Trường hợp kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

2.2. Trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp kháng nghị quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, thì căn cứ vào khoản 2 Điều 316 của BLTTHS, việc kháng nghị và xét kháng nghị được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm.

2.3. Trường hợp kháng nghị đối với các quyết định khác, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật liên quan quy định về thẩm quyền và thủ tục kháng nghị, giải quyết kháng nghị cụ thể đó”.

– Kiểm tra thủ tục kháng cáo đã hợp lệ hay chưa.

– Việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo chủ yếu được thực hiện tại Tòa án cấp sơ thẩm. Cần nghiên cứu hướng dẫn tại mục 3 Phần I Nghị quyết số 05/2005 để kiểm tra việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Tòa án cấp sơ thẩm đã đúng và đầy đủ hay chưa để có quyết định tương ứng phù hợp.

– Khi Tòa án cấp phúc thẩm nhận được đơn kháng cáo và các tài liệu chứng cứ kèm theo (nếu có) thì phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các công việc theo thủ tục chung.

– Kiểm tra kháng cáo, kháng nghị có làm đúng trong thời hạn quy định tại Điều 234 và Điều 239 BLTTHS hay không? Để kết luận đúng, cần phải xác định đúng thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị và ngày kháng cáo theo hướng dẫn tại mục 4 Phần I Nghị quyết số 05/2005:

“4. Về Điều 234 của BLTTHS

4.1.Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị

a, Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa.

b, Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó.

4.2. Xác định ngày kháng cáo

“…

c, Trong trường hợp người kháng cáo đến nộp đơn kháng cáo tại Tòa án hoặc trong trường hợp họ đến Tòa án cấp sơ thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn hoặc là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo”.

– Xem xét kháng cáo quá hạn: Thư ký Tòa án được phân công nhận hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị cần kiểm tra có kháng cáo quá hạn hay không, nếu có thì báo cáo lãnh đạo Tòa án để xem xét kháng cáo quá hạn.

+ Khi có kháng cáo quá hạn, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. Việc xét lý do kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa;

+ Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng, tức là trong trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định. Ví dụ: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, bị tai nạn phải nằm viện điều trị…

+ Để xét kháng cáo quá hạn đúng quy định tại điều 235 BLTTHS cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 5 Phần I Nghị quyết số 05/2005;

+ Quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá hạn phải làm đúng theo mẫu số 01c và Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn phải làm đúng theo mẫu số 01d (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

   – Kiểm tra Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ việc thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị hay chưa? Để kết luận đúng phải căn cứ vào Điều 236 BLTTHS và hướng dẫn trong mục 6 Phần I Nghị quyết số 05/2005.

– Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị phải làm đúng theo mẫu số 01đ (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

– Xử lý việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị, việc rút kháng cáo, kháng nghị và để xử lý đúng việc rút kháng cáo, kháng nghị, ngoài việc căn cứ vào Điều 238 BLTTHS, cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005.

– Cuối cùng là xem xét thông báo việc rút kháng cáo, kháng nghị có đúng theo mẫu số 01e (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

  1. Thụ lý vụ án

Sau khi xem xét đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về đơn kháng cáo, hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị đã hợp lệ thì Thư ký Tòa án được phân công tiến hành thụ lý vụ án. Việc thụ lý vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm được thực hiện tương tự như tại Tòa án cấp sơ thẩm.

VBQPPL:

– BLTTHS (các điều 176, 238, 243)

– Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP (các mục 1, 2 Phần I)

– Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP (mục 2 Phần II, Phần III).

– Ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án, phải vào sổ thụ lý và ghi số, ngày, tháng năm thụ lý hồ sơ vụ án vào bìa hồ sơ.

+ Nên ghi ở góc trên, bên trái của bìa hồ sơ vụ án. Nếu sau khi kết thúc việc nhận hồ sơ, đã hết giờ làm việc trong ngày thì việc vào sổ thụ lý mới được để chậm lại sang ngày làm việc tiếp theo.

+ Nội dung sổ thụ lý phải ghi đầy đủ các cột theo mẫu, chữ viết phải ngay ngắn, rõ ràng.

  

 

  1. Gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp phúc thẩm nghiên cứu
VBQPPL:

– Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (Phần III).

   Việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp phúc thẩm phải được thực hiện trong thời hạn và trình tự được hướng dẫn tại Phần III Nghị quyết số 05/2005:

   “2. Ngay sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần kiểm tra tính hợp lệ của kháng cáo, kháng nghị và xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Khi chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp chuyển cho Tòa án cấp phúc thẩm chứng cứ mà Viện kiểm sát mới thu thập được và danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm (nếu có)…”.

Hết thời hạn mười ngày nghiên cứu, Viện kiểm sát hoàn trả lại hồ sơ cho Tòa án. Cán bộ Tòa án báo cáo Chánh án về việc Viện kiểm sát hoàn trả hồ sơ đã nghiên cứu để Chánh án hoặc Phó chánh án phụ trách phân công Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa trực tiếp xét xử, giải quyết vụ án đó.

  1. Xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
VBQPPL:

– BLTTHS năm 2003 (Điều 243)

–  Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 2 Phần II).

Sau khi nhận hồ sơ Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét có căn cứ áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hay không? Để quyết định đúng cần căn cứ vào quy định tại Điều 243 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 2 Phần II Nghị quyết số 05/2005.

Khi kiểm tra thấy cần thiết phải áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thì cần phải dự thảo ngay các loại quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn phù hợp với từng hồ sơ vụ án để trình người có thẩm quyền ký.

  1. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
  2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án
VBQPPL:

–  BLTTHS năm 2003 (các Điều 207, 247)

– Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mẫu số 02a).

   Cũng như việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, thì việc nghiên cứu hồ sơ ở giai đoạn phúc thẩm theo phương pháp nào phụ thuộc vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng Thẩm phán. Thể hiện qua hai phương pháp sau:

   *Phương pháp thứ nhất: Qua thực tiễn cho thấy, nếu hành vi phạm tội của bị cáo và vai trò của từng bị cáo đã rõ ràng thì nghiên cứu theo trình tự tố tụng (thời gian từ thời điểm ban đầu xây dựng hồ sơ đến khi kết thúc giai đoạn xét xử sơ thẩm) là hợp lý vì nghiên cứu theo trình tự thời gian như vậy thì có thể tránh được định kiến của mình dựa trên kết luận của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm nhưng sự chú ý lại dễ bị phân tán, việc ghi chép trích dẫn nhiều khi lại phải quay lại phần đã đọc, rất mất thời gian mới nắm vững được các tình tiết của vụ án cũng như quan điểm của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm.

*Phương pháp thứ hai: Thông thường phương pháp nghiên cứu theo trình tự ngược lại” được áp dụng nhiều hơn, cụ thể như sau:

– Trước tiên, Thẩm phán cần nghiên cứu bản án sơ thẩm để biết nội dung vụ án, phần nhận định, kết luận và quyết định của bản án hình sự sơ thẩm. Khi nghiên cứu bản án hình sự sơ thẩm cần chú ý đến tính hợp pháp và có căn cứ. Tính hợp pháp thể hiện ở chỗ bản án hình sự sơ thẩm phải phù hợp với các quy định của pháp luật hình sự trong việc định tội danh, định khung hình phạt, quyết định hình phạt và phải phù hợp với các quy định của BLTTHS. Tính có căn cứ thể hiện ở các chứng cứ dùng để chứng minh vụ án phải phù hợp với những sự kiện (tình tiết) thực tế của vụ án đã xảy ra.

– Sau đó, Thẩm phán nghiên cứu biên bản phiên tòa để nắm được nội dung diễn biến của phiên tòa, đối chiếu xem phần nhận định và quyết định của bản án hình sự sơ thẩm có dựa trên diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa hay không? Xem xét phần thủ tục tố tụng như thành phần Hội đồng xét xử có đúng quy định của pháp luật không? Ví dụ: Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên. Sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng có ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa không? Ví dụ: Như vắng mặt luật sư trong các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, bị cáo bị truy tố theo khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định tại khoản 2 Điều 57. Các chứng cứ của vụ án có được thẩm tra đầy đủ tại phiên tòa sơ phẩm hay không.

– Tiếp theo, Thẩm phán nghiên cứu, xem xét đánh giá các tài liệu có trong hồ sơ, đối chiếu với nội dung bản án sơ thẩm để xác định: các chứng cứ trong hồ sơ đã đầy đủ chưa; sự việc, tình tiết nào có căn cứ; sự việc tình tiết nào chưa rõ, còn mâu thuẫn để từ đó kết luận bản án sơ thẩm có căn cứ và hợp lý chưa. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị xét xử phúc thẩm cần lưu ý:

+ Phải ghi chép tóm tắt nội dung vụ án, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

+ Đối với trường hợp bị cáo kháng cáo chối tội (kêu oan), thì Thẩm phán cần ghi rõ các tình tiết để chứng minh (căn cứ vào lời khai, các tài liệu khác thể hiện tại các bút lục trong hồ sơ), để tránh bị động lúng túng tại phiên tòa, đồng thời là cơ sở cho việc lập kế hoạch xét hỏi.

   Trong trường hợp hồ sơ dày, tính chất vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo thì Thẩm phán cần nghiên cứu những tình tiết chính, trọng tâm và bị cáo có vai trò chính trước, sau đó nghiên cứu những bị cáo khác. Nếu vụ án có nhiều bị cáo mà bị xét xử về nhiều tội khác nhau thì có thể nghiên cứu theo từng nhóm bị cáo phạm cùng một tội. Khi nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy chứng cứ chưa đầy đủ mà Tòa án không thể tự mình bổ sung được thì Tòa án có thể yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ.

   – Về nguyên tắc chung cần phải nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án cả về thủ tục tố tụng và nội dung sự việc. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy không cần thiết xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, thì chỉ lập kế hoạch xét hỏi hợp lý đối với nội dung kháng cáo, kháng nghị (căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 207 và Điều 247 BLTTHS).

   – Nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, người kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm phải làm đúng theo mẫu số 02a (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

  1. Kết hợp đồng thời việc nghiên cứu hồ sơ với việc nhận và xem xét chứng cứ được bổ sung tại Tòa án cấp phúc thẩm

   – Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới.

   – Khi Viện kiểm sát tự mình bổ sung chứng cứ mới; người kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Việc giao nhận chứng cứ mới; giao nhận tài liệu, đồ vật do đương sự bổ sung phải được lập thành văn bản. Biên bản phải có chữ ký của bên giao, bên nhận và được lưu trong hồ sơ vụ án.

   – Chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét, nghiên cứu cùng chứng cứ cũ, tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án.

  1. Lên lịch xét xử và gửi cho các cơ quan liên quan

   Trên cơ sở quyết định phân công xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa lên lịch xét xử giao cho bộ phận thường trực để thông báo thời gian, địa điểm xét xử cho các đơn vị liên quan như: Viện kiểm sát cùng cấp, Công an, Trại giam, Đoàn luật sư,… (lịch xét xử phải được thông báo chậm nhất là 15 ngày trước ngày mở phiên tòa).

  1. Triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa
VBQPPL:

–       BLTTHS năm 2003 (Điều 245)

–       Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 3 Phần II)

   Căn cứ vào Điều 245 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005 để xác định những người tham gia phiên tòa phúc thẩm. Trên cơ sở đó triệu tập những người tham gia đến phiên tòa phúc thẩm bằng văn bản và tùy vào từng đối tượng cụ thể mà có hình thức văn bản phù hợp (nếu đã có mẫu văn bản thì phải làm đúng theo mẫu đã được ban hành).

  1. Lập kế hoạch xét hỏi

Kế hoạch xét hỏi để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được lập trên cơ sở chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị. Dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa như bị cáo chỉ nhận tội một phần thì khi xét hỏi phải kết hợp giữa xét hỏi với việc xem xét vật chứng (nếu cần), hoặc triệu tập những người tham gia tố tụng khác để có kế hoạch thẩm vấn nếu cần. Trường hợp bị cáo kêu oan thì Thẩm phán cần xem xét kỹ hồ sơ và có kế hoạch xét hỏi thẩm tra mọi tình tiết của vụ án để xem xét bị cáo kêu oan có cơ sở hay không….

  1.  Chuẩn bị cho việc quyết định bắt và tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án
VBQPPL:

–       BLTTHS năm 2003 (Điều 261)

–       Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II)

   Trong khi nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy có đủ các điều kiện (có căn cứ để xử phạt tù bị cáo; bị cáo không thuộc trường hợp có thể cho hưởng án treo; bị cáo không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 261 BLHS) và xét thấy cần ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, thì phải thực hiện các công việc được hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II Nghị quyết số 05/2005.

  1. Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự

   Căn cứ vào các Điều 56, 57 BLTTHS và hướng dẫn tại các mục 1, 2 và 3 phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP; trên cơ sở đề nghị và xem xét các giấy tờ cần thiết của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và tùy vào từng đối tượng cụ thể mà có hình thức văn bản phù hợp.

   Lãnh đạo Tòa án cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (đối với vụ án chưa phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa); Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

  1. Về thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm

   Về nguyên tắc chung Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm. Thực tiễn xét xử phúc thẩm trong những năm qua cho thấy trong các trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ gồm ba Thẩm phán. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét thấy vụ án phức tạp hoặc vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội cần có thêm ý kiến của Hội thẩm thì báo cáo Chánh án hoặc người được Chánh án ủy quyền quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và hai Hội thẩm. Cần lưu ý là trường hợp này không thực hiện đối với các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương vì ở Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương không có Hội thẩm.

  1. Thư ký phiên tòa kiểm tra điều kiện vật chất cho việc xét xử

– Thư ký kiểm tra phòng xử án xem đã đảm bảo cho việc xét xử chưa như: Bàn, ghế ngồi của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, bị cáo; vành móng ngựa, biển hiệu đã đầy đủ và đúng vị trí chưa; hệ thống âm thanh, ánh sáng,… Bên cạnh đó, Thư ký phải chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để Hội đồng xét xử giải quyết khi có tình huống xảy ra như: Lệnh trích xuất, Lệnh bắt tạm giam, Quyết định tạm giam, Quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa, trích lục bản án,…

  1. KỸ NĂNG ĐIỀU KHIỂN PHIÊN TÒA PHÚC THẨM

Những quy định chung về thủ tục phiên tòa phúc thẩm:

VBQPPL:

–       BLTTHS năm 2003 (Điều 247, các Chương XVIII, XIX, XX, XXI và XXII)

–       Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5-11-2004 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 04/2004) (các Phần II, III, IV)

–          Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 4 Phần II)

Căn cứ vào Điều 247 BLTTHS, phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm. Do đó, về nguyên tắc chung căn cứ vào quy định tại các Chương XVIII, XIX, XX, XXI và XXII BLTTHS; hướng dẫn tại các phần II, III, IV Nghị quyết số 04/2004; hướng dẫn tại mục 4 Phần II Nghị quyết số 05/2005 để tiến hành thủ tục phiên tòa phúc thẩm đúng quy định. Quy trình điều khiển phiên tòa phúc thẩm trải qua những thủ tục sau:

  1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
VBQPPL:

–       BLTTHS năm 2003 (Điều 198, 245)

–       Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 3, tiểu mục 4.2 mục 4 Phần II)

– Trước khi bắt đầu phiên tòa yêu cầu Thư ký Tòa án phổ biến nội quy phiên tòa, những biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên tòa quy định tại Điều 198 BLTTHS; Kiểm tra những người được triệu tập tham gia phiên tòa và nếu có người vắng mặt cần làm rõ lý do để báo cáo với Hội đồng xét xử.

– Do Tòa án cấp phúc thẩm không có quyết định đưa vụ án ra xét xử, cho nên sau khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, thay cho việc đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa tuyên bố khai mạc phiên tòa (Lời khai mạc phiên tòa cần theo đúng hướng dẫn tại tiểu mục 4.2 mục 4 Phần II Nghị quyết số 05/2005). Khi Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa cần yêu cầu mọi người đứng dậy như khi tuyên án.

– Sau khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa yêu cầu Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm đã có mặt; nếu có người vắng mặt đề nghị báo cáo lý do của sự vắng mặt.

– Các công việc tiếp theo như: kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa đã có mặt, giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ, v.v… Chỉ xác định căn cước của các bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng nghị (về tư cách tham gia tố tụng của các bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng nghị, cần xác định tư cách của họ là người làm chứng).

– Khi giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cần giải thích thêm quyền bổ sung, thay đổi, giữ nguyên, rút một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị (nhưng không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo). Nếu người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và không còn ai kháng cáo thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.

– Cần chú ý là trong trường hợp người được triệu tập tham gia phiên tòa vắng mặt tại phiên tòa cần căn cứ vào khoản 2 Điều 245 BLTTHS và nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005 để quyết định trường hợp nào phải hoãn phiên tòa và trường hợp nào vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

– Giải quyết yêu cầu, đề nghị về hoãn phiên tòa (trong trường hợp người được triệu tập vắng mặt; bị cáo chưa nhận được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị hoặc thông báo về thời gian mở phiên tòa phúc thẩm…). Việc thảo luận và thông qua quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử vụ án được thực hiện tại phòng nghị án, không phải lập thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa.

  1. Kỹ năng xét hỏi và điều khiển quá trình xét hỏi tại phiên tòa

Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa cần xem xét, xác định phạm vi xét xử phúc thẩm (theo quy định tại Điều 241 BLTTHS năm 2003). Về nguyên tắc chung Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án. Trong trường hợp này cần triệu tập những người tham gia tố tụng có liên quan đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét. Tại Điều 241 BLTTHS quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”.

Cũng như ở cấp sơ thẩm, xét hỏi tại giai đoạn phúc thẩm cũng là việc điều tra công khai nhằm kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ, tài liệu được bổ sung tại phiên tòa làm căn cứ cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.

Trình tự xét hỏi ở cấp phúc thẩm cũng như ở cấp sơ thẩm, chỉ khác với cấp sơ thẩm là trước khi xét hỏi thường là Chủ tọa phiên tòa trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị. Chủ tọa cần có phương pháp xét hỏi hợp lý tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể để đạt hiệu quả cao nhất và bảo đảm tuân thủ các quy định của BLTTHS.

Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo có thái độ khai báo quanh co, chối tội, thì Thẩm phán nên bắt đầu hỏi các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn trước; trong quá trình xét hỏi nên sử dụng lời khai của bị cáo này để đấu tranh với bị cáo kia và trích lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra để buộc bị cáo phải chứng minh lời khai của mình là đúng hay không đúng và có liên quan đến nội dung kháng cáo hay không?

Trường hợp có nhiều bị cáo mà lời khai của họ tại cấp sơ thẩm không thống nhất, khác với lời khai tại giai đoạn điều tra, Thẩm phán phải cân nhắc xét hỏi bị cáo nào trước để thuận lợi cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Thông thường trong trường hợp này nên bắt đầu từ bị cáo nhận tội hoặc có lời khai tương đối trung thực hơn so với bị cáo khác. Nếu xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể cho đối chất tại phiên tòa. Cũng như ở phiên tòa sơ thẩm, cần hỏi kỹ những người tham gia tố tụng như người bị hại, nhân chứng,… để có cơ sở xem xét đến kháng cáo hoặc kháng nghị.

  1. Kỹ năng điều khiển phần tranh luận tại phiên tòa

Phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm cũng tương tự như ở cấp sơ thẩm, có một s lưu ý là: Mở đầu phần tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, trên cơ sở kiểm tra các chứng cứ cũ và mới (nếu có) để kết luận về tính hợp pháp của bản án sơ thẩm và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo hoặc kháng nghị. Tiếp theo, người bào chữa trình bày và nêu lên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến kháng cáo, kháng nghị (nếu không có người bào chữa thì bị cáo tự mình bào chữa) sau đó đến những người tham gia tố tụng khác.

Sau khi các bên đã trình bày xong quan điểm của mình, Chủ tọa phiên tòa điều khiển phần đối đáp cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi phân đối đáp đã đầy đủ Hội đồng xét xử tuyên bố kết thúc phần tranh luận, cho các bị cáo nói lời sau cùng và chuyển sang phần nghị án.

  1. Nghị án và tuyên án khi xét xử phúc thẩm hình sự
VBQPPL:

–       Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5-11-2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003 (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 04/2004)

–       Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005)

Việc nghị án và lập biên bản nghị án cũng tiến hành như ở cấp sơ thẩm. Mặc dù cấp phúc thẩm chỉ xét những phần của bản án có kháng cáo, kháng nghị. Song theo nguyên tắc cần phải xem xét toàn diện vụ án, do vậy nếu cần thiết Hội đồng xét xử vẫn xem xét đến những vấn đề không có kháng cáo, kháng nghị để giải quyết (nếu điều đó không làm xấu đi tình trạng của bị cáo). Trước khi tuyên án, Hội đồng xét xử phải xem xét kỹ lưỡng bản án và thủ tục tuyên án cũng như ở cấp sơ thẩm, một thành viên của Hội đồng xét xử đọc bản án. Cần chú ý một số điểm sau đây:

+ Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Hội đồng xét xử phải làm đúng theo mẫu số 02b (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

+ Biên bản nghị án phải làm đúng theo mẫu số 02c (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

+ Biên bản phiên tòa hình sự phúc thẩm phải làm đúng theo mẫu số 02d (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

+ Bản án hình sự phúc thẩm phải làm đúng theo mẫu số 02đ (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005).

  1. Công việc sau phiên tòa phúc thẩm hình sự

Sau phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải tiến hành một số việc cụ thể như:

– Kiểm tra và ký biên bản phiên tòa;

– Kiểm tra việc giao bản án (quyết định) phúc thẩm của Thư ký Tòa án cho những người tham gia tố tụng (nếu họ có yêu cầu), cho cấp sơ thẩm,… có đúng theo quy định của pháp luật hay không;

– Cấp trích lục hoặc bản sao bản án cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ (nếu họ có yêu cầu);

– Cấp trích lục hoặc bản sao bản án cho những người tham gia tố tụng xem biên bản phiên tòa (nếu họ có yêu cầu).

Cần lưu ý: Các Thẩm phán xét xử phúc thẩm cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị việc xét xử đúng thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng; không được hoãn phiên tòa vì những lý do không chính đáng; không tăng hoặc giảm án không đáng kể, không có căn cứ; không được hủy án một cách tùy tiện mà không nêu được lý do cụ thể và thuộc trường hợp nào quy định tại Điều 250 BLTTHS; việc giao bản án và quyết định phúc thẩm phải bảo đảm trong thời hạn quy định của pháp luật tố tụng. Nếu thấy có vướng mắc trong việc giải quyết vụ án thì phải báo cáo lãnh đạo trực tiếp phụ trách để tổ chức phiên họp trao đổi về việc giải quyết các vụ án, đặc biệt đối với các trường hợp sau:

+ Vụ án thuộc trường hợp phải báo cáo cấp ủy theo Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị hoặc các vụ án điểm của địa phương;

+ Các vụ án mà quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán cấp tỉnh hủy bản án sơ thẩm mà Thẩm phán thấy có thể xử khác với định hướng của quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm;

+ Vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã báo cáo trao đổi với Tòa án tỉnh, nhưng Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử thấy có thể xét xử khác với quyết định của bản án sơ thẩm (sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm)… (Công văn số 260/TANDTC ngày 22/10/2010).

  1. Thẩm quyền và phạm vi quyết định của cấp phúc thẩm

Theo quy định tại khoản 2 Điều 248 BLTTHS thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền quyết định:

 “a. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;

  1. Sửa bản án sơ thẩm;
  2. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
  3. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.

Các quyết định trên bao gồm cả quyết định có lợi cho bị cáo và không có lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, khi quyết định theo hướng không có lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng thì cấp phúc thẩm cần lưu ý một số vấn đề sau:

– Về tăng hình phạt đối với bị cáo:

Tăng hình phạt đối với bị cáo là việc cấp phúc thẩm quyết định một hình phạt nặng hơn so với hình phạt mà cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo. Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm chưa quyết định hình phạt đối với bị cáo thì cho dù có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại thì cấp phúc thẩm cũng không được áp dụng hình phạt đối với bị cáo, vì như vậy sẽ không phải là tăng hình phạt mà lại là quyết định hình phạt đối với bị cáo. Ví dụ: Cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội hoặc miễn trách nhiệm hình sự.

 Nếu kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo bị kháng nghị, nhưng chỉ được tăng mức hình phạt chứ không được chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn. Ví dụ: Tòa án cấp sơ thẩm phạt bị cáo một năm cải tạo không giam giữ, nếu kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu tăng hình phạt thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt cải tạo không giam giữ lên trên một năm, chứ không được chuyển sang loại hình phạt tù.

– Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn:

Đây là trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng điều khoản của BLHS mà điều khoản đó so với điều khoản mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng là nặng hơn. Đó là trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về khoản 2 Điều 138 BLHS nhưng Tòa án cấp phúc thẩm kết án bị cáo theo khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 138 BLHS. Đa phần trong các trường hợp này, khi Tòa án cấp phúc thẩm đã áp dụng điều khoản về tội nặng hơn thì đều tăng hình phạt theo hướng bất lợi cho bị cáo, cũng có những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng điều khoản về tội nặng hơn xong vẫn giữ nguyên mức hình phạt như cấp sơ thẩm đã tuyên.

Cần lưu ý: Khi có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm cần xem xét kỹ nội dung của kháng cáo, kháng nghị để bảo đảm xét xử đúng phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Có những trường hợp, nội dung của kháng cáo, kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cả về điều khoản của cấp sơ thẩm đã áp dụng, đồng thời đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo, nhưng cũng có những trường hợp kháng cáo, kháng nghị chỉ yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét việc áp dụng điều, khoản mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng nhưng không yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo.

Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể áp dụng điều khoản về tội nặng hơn, nếu điều khoản đó vẫn thuộc thẩm quyền của cấp sơ thẩm cũng như theo giới hạn của Điều 196 BLTTHS. Nếu việc áp dụng điều khoản về tội nặng hơn mà vượt quá thẩm quyền của cấp sơ thẩm thì bản án hình sự sơ thẩm sẽ bị hủy.

Đối với kháng cáo, kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện, thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ hủy bản án trong trường hợp thấy hành vi của bị cáo phải xét xử theo một tội danh nặng hơn, hoặc khung hình phạt nặng hơn mà không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.

– Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại:

Về vấn đề này, qua thực tiễn xét xử thấy rằng: Theo quy định tại khoản 2 Điều 250 BLTTHS thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp:

+ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định; hoặc

+ Có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng như: Người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội.

Việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong trường hợp thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục đã được quy định tại Điều 42, Điều 307 BLTTHS….

Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại trong trường hợp “người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội”Đây là quy định mới tại điểm b khoản 2 Điều 250 BLTTHS năm 2003. Trước đây, theo quy định tại BLTTHS năm 1988 và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao thì: nếu tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội và bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm thấy có đủ căn cứ để cho rằng bị cáo phạm tội cũng không được hủy bản án sơ thẩm và vẫn y án sơ thẩm đồng thời kiến nghị cấp giám đốc thẩm xét lại vụ án. Vì nếu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố bị cáo có tội, như có thời gian trước đây chúng ta đã áp dụng thì sẽ không bảo đảm quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo. Nhưng nếu Tòa án cấp phúc thẩm cứ phải tuyên y án rồi kiến nghị lên cấp giám đốc thẩm xét lại thì rất mất thời gian và vụ án bị kéo dài gây dư luận không tốt. Do vậy, BLTTHS năm 2003 đã bổ sung vào Điều 250 BLTTHS cho phép Tòa án cấp phúc thẩm được hủy án trong trường hợp này.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn có thể hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp chứng cứ của vụ án được thu thập không đầy đủ, không thể khắc phục tại cấp phúc thẩm.

Tóm lại để xét xử phúc thẩm một vụ án hình sự được chính xác, đúng đắn và tuân thủ theo những quy định của pháp luật thì đòi hỏi Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa cũng như các vị Hội thẩm nhân dân cần phải nắm rõ được quy trình giải quyết vụ án hình sự và thực hiện tốt các công việc trong giai đoạn xét xử phúc thẩm như: chuẩn bị xét xử, kỹ năng điều khiển phiên tòa phúc thẩm và các công việc sau khi kết thúc phiên tòa phúc thẩm. Bên cạnh đó yêu cầu mỗi Thẩm phán (hoặc Hội thẩm nhân dân nếu có) phải nắm rõ nội dung quy định của các văn bản quy phạm pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cùng với việc không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nhằm phục vụ cho công tác xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự để đáp ứng với tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

 

BÀI 5:

KỸ NĂNG SOẠN THẢO CÁC LOẠI VĂN BẢN

PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

 

  1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC LOẠI VĂN BẢN PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
  2. Các loại văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự

Văn bản pháp luật có ba loại: đó là Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính.

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống.

Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật, nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể cụ thể hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

Văn bản hành chính là văn bản được các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước để điều hành hoặc hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cấp dưới và để đôn đốc, nhắc nhở cấp dưới thực hiện nhiệm vụ được giao; hoặc dùng để truyền đạt những thông tin quan trọng trong trường hợp khẩn cấp; hoặc dùng để truyền đạt ý kiến, kết luận của cấp có thẩm quyền hoặc thông tin về những sự kiện pháp lý khác phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước tới các đối tượng có liên quan.

Hiểu theo nghĩa này thì các loại văn bản được ban hành trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự bao gồm hai loại văn bản là văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính. Trong đó chủ yếu là văn bản áp dụng pháp luật.

Các loại văn bản được ban hành trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự là văn bản pháp luật vì:

– Trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng phải ban hành những văn bản nhất định để tác động, điều chỉnh tới những con người cụ thể hoặc những cá nhân, tổ chức liên quan và những văn bản này đều có giá trị bắt buộc thi hành ở những mức độ khác nhau với các đối tượng có liên quan và đều được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.

– Việc ban hành các loại văn bản trong hoạt động tố tụng hình sự không phải là tuỳ tiện, thích thì ban hành, và ban hành như thế nào cũng được. Văn bản được ban hành phải có giá trị sử dụng, hiệu quả tác động. Vì vậy pháp luật mà ở đây trực tiếp là Bộ luật tố tụng hình sự, các văn bản pháp luật khác có liên quan quy định cụ thể về các trường hợp được sử dụng, hình thức văn bản, thẩm quyền bàn hành văn bản, thủ tục ban hành văn bản cũng như một số vấn đề khác liên quan như thời hạn, thời hiệu, trách nhiệm thi hành, đối tượng thi hành….

  1. Đặc điểm của các loại văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
  2. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự được xác lập bằng ngôn ngữ viết.

Ngôn ngữ viết giúp chủ thể ban hành văn bản trình bày đầy đủ, mạch lạc ý chí của mình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, giúp đối tượng phải thi hành văn bản nắm bắt được để thực hiện.

  1. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định.

Hiện nay chủ thể có thẩm quyền ban hành các loại văn bản phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự do Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật tố tụng hình sự quy định. Ví dụ đối với các Lệnh tạm giam bị cáo do Chánh án hoặc phó Chánh án phụ trách lĩnh vực hình sự được quyền ra lệnh. Các quyết định tạm giam do Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm ban hành.

Chỉ những chủ thể do Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự quy định mới có quyền ban hành văn bản pháp luật. Nếu văn bản được ban hành bởi một cá nhân hay tổ chức mà pháp luật không quy định về thẩm quyền ban hành thì văn bản đó không có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Thẩm phán ra Lệnh tạm giam bị cáo trong quá trình chuẩn bị xét xử. Thì Lệnh tạm giam này không có giá trị pháp lý.

  1. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự có nội dung là ý chí của chủ thể ban hành nhằm đạt được mục tiêu giải quyết các vụ án hình sự.

Nội dung văn bản là ý chí của chủ thể ban hành. Ý chí đó được xác lập trên cơ sở của pháp luật tố tụng hình sự và nhận thức của từng chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử về những tình tiết khách quan của từng vụ án cụ thể phù hợp với mục tiêu giải quyết vụ án.

  1. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự có hình thức do pháp luật quy định.

Hình thức văn bản bao gồm hai yếu tố cấu thành là tên gọi và thể thức của văn bản.

Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và các văn bản có liên quan quy định có nhiều loại văn bản khác nhau được ban hành trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử như lệnh, quyết định, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án, công văn, thông báo… Những quy định đó có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt các văn bản khác trong trong cùng hoạt động, phân biệt văn bản trong hoạt động tố tụng hình sự với văn bản trong hoạt động tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế cũng như xác định vai trò của từng loại văn bản trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Bên cạnh đó pháp luật còn quy định về thể thức văn bản, tức là quy định về cách thức trình bày văn bản theo một kết cấu, khuôn mẫu nhất định, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa hình thức với nội dung của văn bản, đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của ba cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.

  1. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự được ban hành theo thủ tục do pháp luật quy định.

Thủ tục ban hành văn bản pháp luật trong tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự: Như các thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán- Toà án nhân dân tối cao….

  1. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự được Nhà nước đảm bảo thực hiện.

Để đảm bảo thực hiện được các văn bản trong hoạt động tố tụng hình sự, trên thực tế Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, tuyên truyền, giáo dục và cưỡng chế, trong đó biện pháp cưỡng chế được sử dụng là chủ yếu. Nếu các cá nhân, tổ chức có liên quan không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng các nội dung trong văn bản thì phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước.

Tóm lại, văn bản pháp luật được ban hành trong hoạt động tố tụng hình sự là hình thức thể hiện ý chí của chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản, dưới dạng ngôn ngữ viết, được ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội.

Văn bản pháp luật được ban hành trong hoạt động tố tụng hình sự thường được thể hiện ở hai dạng là văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, trong đó chủ yếu là văn bản áp dụng pháp luật.

  1. Các yêu cầu đối với văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự

3.1. Yêu cầu về nội dung của văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.

  1. Nội dung trong văn bản phải phù hợp với đường lối của Đảng.

Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự phải phản ánh kịp thời đường lối, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực, kịp thời tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng cụ thể của các cơ quan Nhà nước.

  1. Nội dung trong văn bản phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân lao động.

Nội dung phản ánh đầy đủ, kịp thời ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Thực chất đây chính là sự đảm bảo yếu tố phù hợp giữa nhu cầu của xã hội và chủ trương xây dựng pháp luật của Nhà nước. Hiệu quả tác động của các văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của các bên liên quan, vào việc Nhà nước có thể hiện và đáp ứng được những lợi ích của các giai tầng trong xã hội hay không. Vì vậy khi ban hành văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự cần cân nhắc, lựa chọn cách thức điều chỉnh để đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích của các nhóm đối tượng có liên quan, đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội, của các nhóm xã hội khác nhau, của mỗi cá nhân hay tổ chức.

  1. Nội dung phải hợp pháp

Khi soạn thảo văn bản cần đối chiếu các nội dung của văn bản đang soạn thảo với nội dung của những văn bản có liên quan để đánh giá về sự phù hợp và thống nhất về nội dung của chúng.

Sự phù hợp ở đây được thể hiện các mệnh lệnh được đưa ra phải phù hợp với các quy phạm pháp luật hiện hành về nội dung và mục đích điều chỉnh. Văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự là sự cụ thể hoá các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và các quy phạm pháp luật hình sự vào từng vấn đề để giải quyết những vụ án cụ thể. Ví dụ: Bản án hình sự có nội dung hợp pháp khi các mệnh lệnh cá biệt trong bản án phù hợp với những quy phạm pháp luật của Bộ luật hình sự, bộ luật dân sự và những văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan tới vụ án được đưa ra xét xử.

Đối với văn bản hành chính thì các nội dung trong văn bản phải phù hợp với nội dung của của các văn bản áp dụng pháp luật có liên quan trực tiếp tới văn bản hành chính đó.

  1. Nội dung phải có tính khả thi

Tính khả thi được thể hiện ở sự phù hợp giữa nội dung văn bản với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn văn bản đó được ban hành và được triển khai thực hiện. Nếu văn bản phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn…

Tính khả thi còn thể hiện các quy định, mệnh lệnh trong văn bản được ban hành phải chi tiết, cụ thể để dễ dàng triển khai thực hiện trong thực tiễn, phù hợp với khả năng của các cơ quan có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện văn bản và phù hợp với trình độ nhận thức của các đối tượng có liên quan.

Các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, cách diễn đạt, trình bày nội dung văn bản phải cô đọng, khoa học dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của đông đảo nhân dân để tạo ra sự thuận lợi trong việc thực hiện văn bản pháp luật trên thực tế.

3.2. Yêu cầu về hình thức của văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự

Hình thức của văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự bao gồm tên gọi và thể thức của văn bản:

Tên gọi của văn bản: Do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quy định này phản ánh giới hạn về quyền lực của chủ thể ban hành văn bản. Nghĩa là khi cơ quan tiến h�nh tố tụng hình sự quyết định các vấn đề để giải quyết vụ án cụ thể thì chỉ có quyền ban hành văn bản cụ thể theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Ví dụ: Để thực hiện việc bắt bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án thì Chánh án hoặc Phó chánh án ra Lệnh bắt và tạm giam bị cáo.

Việc soạn thảo các văn bản phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự, thì sử dụng hình thức văn bản nào không hoàn toàn lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của người soạn thảo mà  tuỳ thuộc vào từng vấn đề  phát sinh trong vụ án cụ thể cần giải quyết.

Thể thức văn bản: là kết cấu về hình thức của văn bản theo quy định của pháp luật.

Thể thức của văn bản trước hết phải trình bày theo đúng hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 55/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng chính phủ ngày 06/5/2005 hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản và Thông tư số 01/2011/TT-BNV của Bộ Nội vụ ngày 19/01/2011, thể thức của văn bản pháp luật bao gồm một số đề mục được trình bày ở những vị trí xác định. Do vậy người soạn thảo văn bản cần nắm vững được những quy định tại các thông tư này để soạn thảo văn bản được chính xác, khoa học.

3.3. Yêu cầu về ngôn ngữ của văn bản

Thứ nhất: Ngôn ngữ của văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự là ngôn ngữ viết.

Thứ hai: Ngôn ngữ văn bản pháp luật trong tố tụng hình sự là tiếng việt.

Thứ ba: Là ngôn ngữ được Nhà nước sử dụng chính thức.

3.4. Yêu cầu đối với hoạt động xây dựng văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự

Thứ nhất: Soạn thảo văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự phải đúng thẩm quyền.

Thẩm quyền về nội dung: Tức là xác định đúng về thẩm quyền giải quyết công việc phát sinh trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án được ban hành những loại văn bản gì trong hoạt động tố tụng của mình. Ví dụ cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo cho việc thi hành án  thì Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm có thẩm quyền ra quyết định tạm giam.

Thẩm quyền về hình thức: Là thẩm quyền của các chủ thể trong việc ban hành những hình thức văn bản nhất định phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự. Mỗi chủ thể có thẩm quyền chỉ được ban hành một số loại văn bản nhất định.

Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, chánh án, phó chánh án, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán được quyền ban hành những loại văn bản nào cần được làm rõ. Bởi nếu xác định sai thẩm quyền về nội dung hay hình thức thì văn bản được ban hành đều không có giá trị pháp lý. Ví dụ: Để tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án trước khi mở phiên toà thì hình thức văn bản cần được ban hành là Lệnh tạm giam do Chánh án hoặc phó chánh án ban hành, nhưng tạm giam bị cáo sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm thì hình thức văn bản là quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm.

Vấn đề xác định đúng thẩm quyền khi ban hành văn bản phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự là một vấn đề hết sức phức tạp. Nếu văn bản được ban hành trái thẩm quyền thì sẽ không có hiệu lực pháp luật và sẽ bị cấp có thẩm quyền bãi bỏ.

Vì vậy để văn bản pháp luật phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự được ban hành đúng thẩm quyền thì người soạn thảo cần hết sức thận trọng, nghiên cứu kỹ pháp luật hiện hành để xác định chủ thể ban hành và hình thức văn bản cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể.

Thứ hai: Phải được tiến hành đúng thủ tục do pháp luật quy định và phải đúng chuyên môn, nghiệp vụ.

Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định và hướng dẫn khá rõ ràng cụ thể về hình thức của các loại văn bản.

Ví dụ: Điều 104 (quyết định khởi tố vụ án án hình sự); Điều 108 (quyết định không khởi tố vụ án hình sự); điều 224 (bản án), các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao còn ban hành các mẫu văn bản cụ thể để thống nhất áp dụng thực hiện trong toàn ngành.

Soạn thảo văn bản pháp luật: Khi soạn thảo cần xuất phát từ tính chất của mỗi vụ việc cụ thể để xác định phạm vi những vấn đề được đề cập và đối tượng tác động của văn bản.

Trong văn bản cần giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan tới nội dung chính mà không được bỏ sót những nội dung phụ, trường hợp phức tạp không thể giải quyết cùng lúc và nếu được pháp luật cho phép thì cần nói rõ nội dung nào được tách ra để giải quyết sau. Ví dụ: Trong bản án hình sự, cần giải quyết cả vấn đề dân sự như bồi thường thiệt hại, xử lý tài sản bị tạm giữ, vấn đề cấp dưỡng, án phí… nhưng trong trường hợp pháp luật quy định thì có thể tách một phần dân sự liên quan đến vụ án để giải quyết trong vụ án khác (khi đó phải nói rõ trong bản án hình sự).

Thông qua văn bản pháp luật:

Việc thông qua văn bản pháp luật cũng được tiến hành theo những thủ tục do pháp luật quy định, có thể do cá nhân quyết định, cũng có thể do tập thể biểu quyết. Ví dụ, trước khi mở phiên toà, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tại phiên toà thì Hội đồng xét xử thông qua quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Ban hành văn bản pháp luật:

Sau khi văn bản được ban hành thì gửi tới những cá nhân, tổ chức có liên quan để thực hiện. Việc giao nhận có thể gửi trực tiếp hoặc thông qua đường công văn tới từng đối tượng tiếp nhận tuỳ theo tính chất và yêu cầu của vụ việc cụ thể.

  1. KỸ NĂNG SOẠN THẢO VĂN BẢN PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
  2. Soạn thảo một số đề mục chung, bắt buộc phải có trong tất các các loại văn bản
  3. Quốc hiệu

Về nội dung phần Quốc hiệu được hợp thành bởi tên nước, chế độ chính trị và mục tiêu chính trị của Nhà nước ta. Phần này được trình bày ở bên phải, phía trên cùng của văn bản gồm hai dòng; dòng trên viết chữ in hoa; dòng dưới viết chữ thường có các gạch nối ở giữa các từ. Phía dưới cùng có đường gạch ngang, nét liền kéo dài đến hết dòng chữ:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

  1. Tên cơ quan ban hành văn bản

Trình bày ngang hàng với quốc hiệu, về phía trái văn bản

Vì các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự có vị trí tương đối  độc lập với cơ quan cấp trên trực tiếp nên chỉ ghi tên cơ quan ban hành văn bản mà không phải ghi cơ quan cấp trên (dòng trên) và cơ quan ban hành văn bản (dòng dưới).

Ví dụ: đối với bản án do Toà án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ban hành thì chỉ cần ghi:

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH

Mà không cần ghi:

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH

  1. Số, kí hiệu của văn bản

Số, ký hiệu của văn bản được đặt dưới tên cơ quan ban hành văn bản.

Số của văn bản là số thứ tự được ghi liên tục theo dãy số tự nhiên, bắt đầu từ số 01 tính từ ngày 01 tháng 01 hàng năm và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 của năm.

Hiện nay thường sử dụng hai cách đánh số văn bản sau:

Cách thứ nhất: Đánh số chung cho tất cả các loại văn bản, ví dụ các công văn, thông báo, quyết định, lệnh… đều sử dụng một số thứ tự chung, thống nhất.

Cách thứ hai: Đánh số cho từng loại văn bản. Cách này được sử dụng chung và phổ biến trong hoạt động tố tụng hình sự. Bởi lẽ, trong một năm công tác, số lượng văn bản mà cơ quan tiến hành tố tụng ban hành là rất lớn, bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau như lệnh, quyết định, thông báo, bản án. Trong số các lệnh lại có lệnh bắt và tạm giam, lệnh tạm giữ, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, hay các bản án thì có bản án hình sự sơ thẩm, bản án hình sự phúc thẩm, các quyết định có quyết định tạm giam, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung…. Vì vậy, việc đánh số thứ tự theo từng loại văn bản, tương ứng với từng loại việc cụ thể được áp dụng phổ biến và tiện dụng hơn cả.

Ví dụ: Trong hoạt động tố tụng của Toà án. Việc đánh số văn bản Lệnh tạm giam, lệnh trích xuất; số quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả tự do cho bị cáo, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được theo dõi riêng theo từng loại sổ….

Đối với văn bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự thì sau phần số của văn bản là năm ban hành văn bản. Năm ban hành văn bản được ghi đầy đủ cả bốn chữ số và phân cách với các phần khác bởi dấu gạch chéo.

Ví dụ: Số     /2013/…

Đối với văn bản hành chính thì sau phần số của văn bản không ghi năm ban hành văn bản mà sau phần số của văn bản là ký hiệu của văn bản. Phần số của văn bản được phân cách với phần ký hiệu của văn bản bởi dấu gạch chéo. Ví dụ: Số   /TB- TA.

Kí hiệu của văn bản được trình bày sau phần năm ban hành văn bản (Đối với văn bản áp dụng pháp luật) và sau phần số (Đối với văn bản hành chính).

Thông thường đối với văn bản áp dụng pháp luật thì ký hiệu của văn bản là chữ viết tắt tên của cấp xử lý công việc và chữ viết tắt của tên loại việc mà văn bản giải quyết, chữ viết tắt của ký hiệu văn bản được phân định với nhau bởi dấu gạch ngang. Ví dụ: Số 15/2013/HSST- QĐ (Số 15/2013/ hình sự sơ thẩm/ quyết định).

Đối với văn bản hành chính, ký hiệu của văn bản bao gồm chữ viết tắt tên cơ quan ban hành văn bản và chữ viết tắt của tên đơn vị soạn thảo văn bản. Ví dụ công văn, hoặc thông báo của Toà án do Toà hình sự soạn thảo: Số:…../TA-THS

Chữ viết tắt tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản và chữ viết tắt của tên đơn vị soạn thảo văn bản phải được quy định cụ thể, đảm bảo ngắn gọn, dễ hiểu.

  1. Địa danh và thời gian ban hành văn bản

Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp trung ương là tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc tên của thành phố thuộc tỉnh (nếu có) nơi cơ quan, tổ chức đóng trụ sở;

Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cấp tỉnh là tên của thành phố trực thuộc trung ương hoặc là tên thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc của huyện nơi cơ quan, tổ chức đóng trụ sở.

Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cấp huyện là tên của huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Trong trường hợp tên tỉnh khác với tên tỉnh lị, tên huyện khác với tên huyện lị thì trong văn bản pháp luật của các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện ghi tên tỉnh lị hoặc huyện lị để tránh sự trùng lặp giữa các để mục trong hình thức văn bản.

Ví dụ: Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam có tỉnh lị là thành phố Phủ Lý thì trong Quyết định tạm giam của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam ghi là: Phủ Lý, ngày…. tháng… năm…..

Địa danh được đặt dưới Quốc hiệu, về bên phải của văn bản.

Ví dụ:      CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                 Phủ Lý, ngày….tháng….năm……

Thời gian ban hành văn bản: được ghi đầy đủ theo thứ tự ngày, tháng năm bằng số ả rập. Để đảm bảo sự chặt chẽ, chính xác những số chỉ ngày dưới 10, chỉ tháng dưới 3 phải viết số 0 ở trước. Ví dụ: Bắc Ninh, ngày 01 tháng 02 năm 2013.

Hiện nay do chưa có các quy định cụ thể nên việc xác định thời gian của văn bản chưa thống nhất và chưa rõ ràng. Trong khi đó, thời điểm ban hành văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản, xác định việc phát sinh hoặc chấm dứt các quan hệ pháp lý, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các đối tượng có liên quan.

Tuy nhiên, cũng cần phân biệt ngày, tháng, năm văn bản pháp luật được ban hành với ngày mà nó có hiệu lực.

Thông thường đối với những văn bản áp dụng pháp luật thì ngày tháng năm văn bản được ban hành là ngày có hiệu lực của văn bản. Ví dụ: Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định. Nhưng đôi khi ngày tháng năm ban hành văn bản không phải là ngày có hiệu lực của văn bản, đó là những trường hợp nội dung của văn bản liên quan trực tiếp tới vấn đề thời hạn, thời hiệu do pháp luật quy định, như thời hạn tạm giam, tạm giữ. Ví dụ: Trong Lệnh tam giam ban hành vào ngày 06/5/2013, nhưng hiệu lực của Lệnh tạm giam bắt đầu từ ngày 10/5/2013.

  1. Tên gọi của văn bản pháp luật

Các văn bản pháp luật đều có tên gọi riêng. Thông thường tên gọi của văn bản pháp luật được trình bày bằng kiểu chữ in hoa, khổ lớn và đậm; được trình bày ở vị trí giữa văn bản, phía dưới quốc hiệu và tên cơ quan ban hành văn bản.

Tên gọi của văn bản là tên loại văn bản, ví dụ như Lệnh tạm giam, quyết định tạm giam, kết luận điều tra, cáo trạng, quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn… Tuy nhiên, cần lưu ý đối với Công văn và bản án khi trình bày thì không ghi tên văn bản.

Tên gọi của văn bản được xác lập bằng ba cách:

Một là ghép tên văn bản với từng loại chủ đề văn bản;

Hai là dùng tên loại văn bản làm tên của dự thảo, sử dụng trích yếu xác định chủ đề văn bản;

Ba là sử dụng tên loại văn bản chung cho mọi văn bản áp dụng pháp luật cụ thể.

Khi lựa chọn cách thức trình bày tên gọi và trích yếu của văn bản áp dụng pháp luật cần lưu ý tới nét đặc thù của một số loại văn bản đã mang tính phổ biến và ổn định trong hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Bản án, cáo trạng, bản kết luận điều tra chỉ có tên gọi mà không có trích yếu.

Các Lệnh và Quyết định thường được ghép với tên chủ đề. Ví dụ: Lệnh truy nã, Lệnh tạm giam, quyết định tạm giam, quyết định trả tự do, quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn…

  1. Trích yếu của văn bản

Trích yếu là phần ghi tóm tắt một cách chính xác nội dung của văn bản. Phần trích yếu được trình bày phía dưới tên gọi của văn bản, trừ công văn là văn bản không có tên gọi nên trích yếu được trình bày dưới phần số và ký hiệu của văn bản. Tên gọi và trích yếu của văn bản hợp thành một thể thống nhất, xác định chủ đề của văn bản. Trích yếu thường được trình bày ngắn gọn, rõ ràng trong một câu. Trích yếu giúp người soạn thảo văn bản xác định đúng trọng tâm của nội dung văn bản. Đối với người tiếp nhận văn bản, trích yếu có tác dụng giúp cho việc vào sổ, tra tìm văn bản được thuận lợi. Ngoài ra cùng với các đề mục khác trong thể thức văn bản như số, ký hiệu văn bản, tên cơ quan ban hành văn bản, thời gian ban hành văn bản…, trích yếu có tác dụng cá biệt hoá văn bản, giúp cho việc phân biệt văn bản này với văn bản khác.

Cũng cần lưu ý không phải các văn bản pháp luật phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự đều phải có trích yếu, mà tuỳ từng loại văn bản để xác định có trích yếu hay không. Ví dụ bản án hình sự không có trích yếu, hiện nay vẫn có một số Toà án địa phương ghi trích yếu bản án dưới phần số và ký hiệu của bản án là không chuẩn xác.

Ví dụ:         TOÀ ÁN DÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG

                                   Bản án số:      /2013/HSST

               Vụ Nguyễn Văn Hoàng phạm tội Trộm cắp tài sản

Công văn luôn có phần trích yếu. Đa phần các thông báo của cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự cũng có phần trích yếu. Ví dụ: Thông báo về việc tiếp tục giải quyết vụ án. Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị…

  1. Xác lập cơ sở của văn bản

Xác lập cơ sở pháp lý của văn bản:

Cơ sở pháp lý của văn bản là Bộ luật tố tụng hình sự. Trong một số trường hợp ngoài việc viện dẫn các điều khoản của Bộ luật tố tụng hình sự cần phải viện dẫn những văn bản đã ban hành trước đó để minh chứng cho sự đúng đắn về thủ tục giải quyết công việc phát sinh. Ví dụ: Quyết định khởi tố bị can chỉ được ban hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, vì vậy khi ban hành quyết định khởi tố bị can phải căn cứ vào quyết định khởi tố vụ án. Hay trong cáo trạng của Viện kiểm sát, phải căn cứ vào hàng loạt các quyết định ban hành trước đó, như quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, quyết định chuyển vụ án, quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can…

Trong trường hợp chỉ có một điều luât hoặc một văn bản áp dụng pháp luật là cơ sở pháp lý của dự thảo thì vấn đề lựa chọn không được đặt ra. Tuy nhiên, khi cùng lúc có nhiều điều luật liên quan đến dự thảo thì nên lựa chọn những điều luật thực sự có ý nghĩa đối với dự thảo.

Nếu liên quan tới dự thảo là những điều luật có cùng hiệu lực pháp luật và cùng có quy định về vấn đề liên quan tới dự thảo (có điều luật quy định gián tiếp, có điều luật quy định trực tiếp) thì lựa chọn văn bản quy định trực tiếp về vấn đề được để cập trong dự thảo.

Nếu có nhiều điều luật quy độc lập với nhau và đều liên quan tới nội dung cần được minh chứng về sự đúng đắn thì cần viện dẫn tất cả các điều luật.

Nếu đó là những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật khác nhau, trong đó văn bản có hiệu lực thấp giữ vai trò giải thích, hướng dẫn thi hành đối với văn bản có hiệu lực cao hơn thì chỉ viện dẫn văn bản được giải thích mà không viện dẫn văn bản giải thích như: Trong bản án chỉ viện dẫn Bộ luật hình sự mà không viện dẫn Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán.

Cơ sở pháp lý vủa văn bản pháp luật chỉ là văn bản đang có hiệu lực pháp luật vào thời điểm văn bản đó được ban hành.

Xác lập cơ sở thực tiễn của văn bản:

Thông thường cơ sở thực tiễn của văn bản được bắt đầu bằng các từ như “xét”, “để” và được thể hiện bằng các câu do người soạn thảo lựa chọn mà không theo mẫu câu cố định.

Ví dụ: trong quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, thường có các câu như: Xét thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng khác cho việc giải quyết vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được; Xét thấy trong vụ án còn có người đồng phạm khác…

  1. Phần ký trong văn bản

Các văn bản trong hoạt động tố tụng hình sự do người có thẩm quyền ký. Phần ký được trình bày ở góc phải, cuối văn bản. Chức vụ của người ký phải được ghi trước chữ ký và được trình bày theo các thể thức nhất định, phù hợp với thủ tục thông qua và thẩm quyền của người ký văn bản.

Theo quy định của pháp luật, thể thức ký có thể là TM (thay mặt), KT (ký thay), TL (thừa lệnh), TUQ (thừa uỷ quyền), Q (quyền).

Thể thức thay mặt được sử dụng khi văn bản pháp luật được thông qua theo nguyên tắc biểu quyết tập thể và quyết định theo đa số. Khi đó, người ký chỉ xác nhận việc văn bản pháp luật đã được thông quan theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

Ví dụ: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ

Nếu là văn bản do cá nhân điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán được quyền ban hành thì thể thức ký chỉ ghi chức vụ của người ký mà không ghi thay mặt.

Ví dụ: TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

                              THẨM PHÁN

Đối với văn bản do cấp phó ký khi được cấp trưởng uỷ quyền thì phải ghi KT trước chức vụ của cấp trưởng.

Ví dụ: KT. CHÁNH ÁN

          PHÓ CHÁNH ÁN

Trong một số trường hợp, thủ trưởng cơ quan có thể uỷ quyền cho một người khác là cấp dưới ký văn bản về một số việc nhất định. Trường hợp này có hai cách ký:

Cách thứ nhất: Uỷ quyền cho một người giữ chức vụ hành chính là cấp dưới trực tiếp trong thời gian không hạn chế (uỷ quyền thường xuyên) thì khi người được uỷ quyền ký phải ghi TL và chức vụ của người được uỷ quyền.

Cách thứ hai: Uỷ quyền cho người giữ chức vụ Nhà nước với sự hạn chế về thời gian hoặc nội dung công việc được uỷ quyền. Trong trường hợp này, người được uỷ quyền không được uỷ quyền lại. Khi ký, người được uỷ quyền phải ghi TUQ và chức vụ của người được uỷ quyền.

Ví dụ:

Trường hợp người đứng đầu cơ quan được bổ nhiệm là quyền cấp trưởng thì khi ký cần ghi là Quyền trưởng, ví dụ: Quyền Chánh án.

Người có thẩm quyền phải ký trực tiếp, không được ký bằng bút chì, bút mực màu đỏ hoặc bằng các vật liệu dễ phai mờ, phải viết rõ họ tên người ký bằng chữ thường, cách chức vụ của người ký 30 mm.

Thông thường các văn bản phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự chỉ có một chữ ký, nhưng cũng có trường hợp văn bản có nhiều chữ ký như: Bản án, biên bản nghị án.

  1. Dấu trong văn bản pháp luật

Sau khi văn bản pháp luật đã được người có thẩm quyền ký đúng thể thức, văn bản phải được đóng dấu. Dấu phải được đóng đúng chiều, rõ ràng và trùm lên từ ¼ đến 1/3 về bên trái chữ ký. Không được đóng dấu khi chưa có chữ ký. Chữ ký và dấu có vai trò đảm bảo tính hợp pháp của văn bản pháp luật.

  1. Nơi nhận

Phần nơi nhận được trình bày ở góc trái, cuối văn bản, ngang phần chữ ký.

Để trình bày phần này, người ký phải căn cứ vào yêu cầu cụ thể của từng việc và theo đúng những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, quan hệ công tác mà quyết định việc gửi văn bản. Thông thường, văn bản được gửi tới các cơ quan, tổ chức có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan ban hành văn bản; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới việc thực hiện văn bản, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thi hành văn bản và bộ phận có trách nhiệm lưu văn bản.

  1. Soạn thảo nội dung của văn bản

Xác lập đối tượng tác động của văn bản. Thông thường đối với những văn bản phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự, thì đối tượng tác động của văn bản là cá nhân. Để cá biệt hóa những dấu hiệu nhân thân của cá nhân, trước hết ghi họ tên theo chứng minh thư nhân dân hoặc các giấy tờ có trị pháp lý khác. Trường hợp một người có nhiều tên khác nhau (tên khai sinh, tên thường gọi, biệt danh) thì trong văn bản sử dụng tên chính thức còn các tên khác có thể coi như những dấu hiệu có tác dụng cá biệt hóa đối tượng tác động của văn bản.

Thông thường để cá biệt hóa đối tượng tác động của văn bản có thể sử dụng một số dấu hiệu nhân thân như họ và tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chức vụ và nơi công tác. Trong bản kết luận điều tra, cáo trạng hay bản án còn thể hiện một số dấu hiệu nhân thân như giới tính, dân tộc, quốc tịch, trình độ văn hóa, cha mẹ, vợ con của bị can, bị cáo, tiền án, tiền sự… của đối tượng tác động để cá biệt hóa đối tượng đồng thời để góp phần tạo nên sự đánh giá đúng đắn, toàn diện về những vấn đề có liên quan tới đối tượng, giúp cho việc giải quyết công việc được đúng đắn, tránh được sự phiến diện, lệch lạc.

Xác lập các mệnh lệnh cụ thể trong văn bản. Trên cơ sở của pháp luật hiện hành, người soạn thảo cần đưa ra những phán quyết phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể để áp dụng đối với từng đối tượng tác động. Tuy nhiên, ngoài việc căn cứ vào pháp luật, người soạn thảo còn phải xem xét những sự kiện pháp lý phát sinh trên thực tiễn để xác định việc có ban hành văn bản hay không và nội dung của văn bản được ban hành. Chỉ khi nào đã có sự kiện pháp lý liên quan, trực tiếp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của đối tượng tác động thì mới ban hành văn bản để áp dụng pháp luật với đối tượng đó.

Việc xác lập hành vi; xác lập các phán quyết về hành vi; xác lập cách thức thực hiện mệnh lệnh cá biệt thì tùy theo từng văn bản mà lựa chọn các thức xác lập phù hợp đảm bảo tính khoa học, lô gic, chính xác.

Xác lập hiệu lực pháp luật theo thời gian của văn bản.

Thời điểm bắt đầu hoặc kết thúc hiệu lực của văn bản được xác lập theo hướng xác định rõ ngày, tháng, năm cụ thể hoặc gắn với mốc là hoạt động ký hay giao nhận văn bản.

Thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản thường được bố trí ở điều cuối cùng của văn bản.

Đối với những văn bản mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định có hiệu lực thi hành ngay như bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì người soạn thảo không được quy định thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản áp dụng pháp luật theo hướng khác.

Trong trường hợp pháp luật không quy định hoặc quy định tuỳ nghi về thời điểm có hiệu lực của văn bản thì người soạn thảo sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định vấn đề này theo hướng khác nhau: Có hiệu lực ngay, hay có hiệu lực vào thời điểm sau khi ban hành.

Quy định về thời điểm kết thúc hiệu lực của văn bản:

Thông thường quy định về thời điểm kết thúc hiệu lực của văn bản không được xác lập trong văn bản nhưng nếu cần thiết thì người soạn thảo có thể quy định về thời điểm kết thúc hiệu lực của những nội dung cụ thể trong văn bản.

Cũng như vậy, quy định về việc làm mất hiệu lực của văn bản khác cũng ít khi được sử dụng khi ban hành văn bản pháp luật phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự.

Xác lập nghĩa vụ tổ chức thực hiện văn bản:

Việc xác định những cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện văn bản thường được viết bằng một câu, đặt ở điều khoản cuối của văn bản (Có thể bố trí cùng, đặt trước hoặc đặt sau nội dung quy định về thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản). Ví dụ trong Lệnh tạm giam của Toà án, điều khoản cuối cùng thường có câu: Trại tạm giam công an tỉnh X có trách nhiệm thi hành lệnh này.

  1. Một số loại văn bản pháp luật đuợc ban hành trong hoạt động tố tụng hình sự

Lệnh: Lệnh tạm giữ, lệnh tạm giam, lệnh bắt và tạm giam, lệnh truy nã…

Quyết định: Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn…

Bản án: Được Toà án nhân dân cấp sơ thẩm và phúc thẩm ban hành để đưa ra những phán quyết về một vụ án hình sự cụ thể.

Yêu cầu: Được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án ban hành trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự để buộc các đối tượng có liên quan thực hiện những hành vi cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án.

Ví dụ: Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên; Toà án nhân dân cấp tỉnh có quyền yêu cầu Toà án nhân dân cấp huyện chuyển hồ sơ vụ án đã có hiệu lực pháp luật để xem xét, quyết định việc kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.

Thông báo: Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị; Thông báo chuyển ngày xét xử…..

  1. Một số mẫu văn bản thường được sử dụng trong hoạt động tố tụng của Toà án

   Các mẫu văn bản tố tụng này được ban hành kèm theo nghị quyết số 03 năm 2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, gồm:

2.1. Các mẫu văn bản tố tụng dùng cho Tòa án cấp sơ thẩm:

  1. a) Lệnh tạm giam (Mẫu số 01a: dùng cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án để áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam).
  2. b) Lệnh tạm giam (Mẫu số 01b: dùng cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án để áp dụng biện pháp tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm đối với bị cáo đang bị tạm giam).
  3. c) Lệnh bắt và tạm giam (Mẫu số 01c: dùng cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án để áp dụng biện pháp bắt và tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo đang được tại ngoại).
  4. d) Quyết định tạm giam (Mẫu số 01d: dùng cho Hội đồng xét xử sơ thẩm để áp dụng biện pháp tạm giam khi kết thúc phiên tòa đối với bị cáo dang bị tạm giam).

đ) Quyết định bắt và tạm giam (Mẫu số 01đ: dùng cho Hội đồng xét xử sơ thẩm để áp dụng biện pháp tạm giam khi kết thúc phiên tòa đối với bị cáo đang được tại ngoại).

2.2. Các mẫu văn bản tố tụng dùng cho Tòa án cấp phúc thẩm:

  1. a) Lệnh tạm giam (Mẫu số 02a: dùng cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án hoặc Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao để áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với bị cáo đang bị tạm giam).
  2. b) Lệnh tạm giam (Mẫu số 02b: dùng cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án hoặc Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao để áp dụng biện pháp tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa đối với bị cáo đang bị tạm giam)…
  3. c) Lệnh bắt và tạm giam (Mẫu số 02c: dùng cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án hoặc Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao để áp dụng biện pháp bắt và tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với bị cáo đang được tại ngoại).
  4. d) Quyết định tạm giam (Mẫu số 02d: dùng cho Hội đồng xét xử phúc thẩm để áp dụng biện pháp tạm giam khi kết thúc phiên tòa đối với bị cáo đang bị tạm giam).

đ) Quyết định bắt và tạm giam (Mẫu số 02đ: dùng cho Hội đồng xét xử phúc thẩm để áp dụng biện pháp tạm giam khi kết thúc phiên tòa đối với bị cáo đang được tại ngoại).

2.3. Các mẫu văn bản tố tụng dùng chung cho Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm:

  1. a) Giấy chứng nhận người bào chữa (Mẫu số 03a).
  2. b) Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận người bào chữa (Mẫu số 03b).

 

BÀI 6:

KỸ NĂNG SOẠN THẢO BẢN ÁN HÌNH SỰ

 

  1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA BẢN ÁN HÌNH SỰ

Hoạt động tố tụng hình sự được nhiều cơ quan thực hiện, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án giữ vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó quyết định đến sinh mệnh chính trị, quyền con người cũng như lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp đặc biệt, nó còn quyết định đến quyền được sống của con người. Trong đó, Bản án hình sự là một văn bản tố tụng hình sự ghi nhận các kết luận và quyết định của Hội đồng xét xử, cao hơn nữa đó là sự đánh giá của Nhà nước đối với một hành vi, một con người cụ thể khi hành vi đó, con người đó, bị truy tố trước Tòa án. Bản án hình sự đánh dấu sự kết thúc của quá trình điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, do vậy bản án phải phản ánh trung thực diễn biến của vụ án và phải xác định rõ sự thật khách quan, đó là:

Có sự việc phạm tội xảy ra không? Thời gian, địa điểm phạm tội. Ai là người đã thực hiện các hành vi phạm tội và hành vi đó có cấu thành tội phạm không? Nếu là tội phạm thì phạm tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật hình sự? Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh, điều kiện của tội phạm đó…

Căn cứ vào các kết luận, các phân tích, đánh giá nêu trên thông qua cuộc thẩm vấn công khai tại phiên tòa, kết quả tranh luận giữa người bào chữa và đại diện Viện kiểm sát, giữa bị cáo và những người tham gia khác tại phiên tòa với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, để Hội đồng xét xử Quyết định hình phạt cho tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Nếu không có tội thì Hội đồng xét xử phải xác định những căn cứ để tuyên bố bị cáo không phạm tội và giải quyết việc phục hồi danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.

Bản án hình sự là một loại văn bản tố tụng hình sự khi được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì những quyết định trong bản án sẽ đưa đến các hậu quả pháp lý rất lớn và rất quan trọng mang tính Hiến định thể hiện tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 là “Một người chỉ được coi là có tội và phải chịu hình phạt khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

Bộ luật tố tụng hình sự cũng đã quy định “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” (Nguyên tắc suy đoán vô tội) – Điều 9 BLHS năm 2003.

Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các bản án, quyết định của tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Do đó, bản án hình sự có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quyền lực của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hoạt động xét xử, mà kết quả là việc Hội đồng xét xử ra bản án để xác định một người có tội hay không có tội, phải chịu hình phạt hay không phải chịu hình phạt có ý nghĩa chính trị, xã hội rất sâu sắc và trước hết trực tiếp ảnh hưởng tới người bị đưa ra xét xử. Bản án hình sự tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không chỉ có ý nghĩa về mặt đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện nghiêm minh mà còn mang tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm trong xã hội, đồng thời tạo ra niềm tin của nhân dân vào công lý. Với ý nghĩa pháp lý nêu trên, bản án hình sự cần phải có nội dung mang tính khoa học pháp lý, văn phong chuẩn xác, thống nhất theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

  1. VIỆC SOẠN THẢO BẢN ÁN HÌNH SỰ CỦA THẨM PHÁN KHI CHƯA CÓ HƯỚNG DẪN CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN VÀ VIỆC VẬN DỤNG CUỐN SỔ TAY VIẾT BẢN ÁN

2.1. Đánh giá việc soạn thảo bản án hình sự của Thẩm phán thời kỳ trước năm 2004

Mặc dù bản án hình sự có ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, nhưng có thể thấy rằng, trong một thời gian dài khi chưa có Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và cuốn sổ tay viết bản án xuất bản năm 2009 thì cách viết bản án hình sự của các Thẩm phán còn mang tính tùy tiện, cấu trúc, hình thức thể hiện bản án mỗi nơi một khác. Nhiều Thẩm phán chủ tọa phiên tòa viết theo thói quen, không tuân thủ quy định ban hành mà tự mình còn “sáng tác” theo ý riêng của mình như có bản án ghi: “Hôm nay, ngày… tháng… năm… tại trụ sở tòa án… xét xử công khai về hình sự với bị cáo…”. Có bản án lại ghi rằng: “họp phiên tòa công khai ngày…” hay “mở phiên tòa công khai ngày…”. Còn một cách khác là: “Tiến hành xét xử sơ thẩm công khai ngày…”.

Trong phần lý lịch bị cáo, đa số các bản án đều viết nghề nghiệp trước, rồi trình độ văn hóa. Nhưng có trường hợp lại trình bày ngược lại. Về phần tên bố mẹ bị cáo, tại các bản án cũng đa dạng về cách thể hiện. Chẳng hạn như viết: “bố là…”; “mẹ là…”; hay “con ông…”; “con bà…”; hoặc “bố…; mẹ…”… Đa phần các  bản án lại không phản ánh đầy đủ diễn biến quá trình xét xử mà trong phần nhận thấy, các Thẩm phán thường có thói quen viết lại toàn bộ nội dung của bản Cáo trạng, còn diễn biến phiên tòa chỉ nói chung chung rằng tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không nêu người bị hại khai thế nào, Viện kiểm sát đề nghị xử lý vụ án ra sao, dẫn đến bản án khi tuyên đọc không có kết cấu chặt chẽ, không có sự logic giữa các phần trong bản án hình sự, thường có sự mâu thuẫn giữa phần xét thấy với phần nhận thấy hoặc mâu thuẫn giữa phần xét thấy với phần quyết định như: Khi đánh giá vai trò của các bị cáo hoặc đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm song phần quyết định lại cho hưởng án treo hoặc bị cáo có vai trò thấp lại có mức án cao hơn bị cáo có vai trò chính… Để xảy ra tình trạng không thống nhất về hình thức bản án như trên là do 2 nguyên nhân.

Trước hết, trách nhiệm thuộc về Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa – người được giao viết bản án. Các thẩm phán viết theo thói quen, tùy tiện, ngẫu hứng không theo hướng dẫn. Họ chưa nhận thức đầy đủ được trách nhiệm, cũng như tầm quan trọng của việc ra bản án nhân danh nhà nước. Nguyên nhân thứ hai là do quá lâu không có hướng dẫn mới về cách viết bản án của các cấp có thẩm quyền. Trước năm 1985, TAND tối cao ra hướng dẫn cách viết bản án hình sự và đã có mẫu bản án. Nhưng gần 20 năm qua vẫn chưa có hướng dẫn bổ sung để phù hợp với tình hình hiện tại. Hơn nữa, quy định nội dung bản án tại Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 trước đây và tại Điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành lại quá ngắn gọn, đơn giản.

Những hạn chế trên, chỉ được khắc phục khi có Nghị quyết số 04/2004 và cuốn sổ tay viết bản án do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức biên soạn với sự giúp đỡ của Chính phủ Nhật Bản trong khuôn khổ Dự án hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp của Jica. Có thể khẳng định từ năm 2009 đến nay, qua nghiên cứu, khảo sát các Thẩm phán trong toàn quốc nói chung đã chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng viết bản án từ bố cục đến nội dung trình bày. Các lỗi ngữ pháp, lỗi chính tả đều được khắc phục, hạn chế, đúng văn phạm pháp lý.

Đa phần các bản án đã đáp ứng được cả về nội dung và hình thức của một bản án hình sự như:

– Về nội dung: Bản án đã giải quyết đầy đủ, toàn diện các vấn đề của vụ án trên cơ sở của Luật nội dung và Luật tố tụng. Các quyết định của bản án khi viện dẫn đa phần đều chính xác điểm, khoản, Điều của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

– Về mặt hình thức: Văn phong trong bản án đều trong sáng, rõ ràng, đúng chính tả. Bản án thể hiện được không gian, thời gian, địa điểm xét xử, tên Tòa án xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng khác như Viện kiểm sát, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng. Việc phân tích, đánh giá trong các phần của bản án đảm bảo tính thống nhất, không mâu thuẫn, có kết cấu chặt chẽ.

Việc phân tích, chứng minh, kết luận của bản án đã tuân thủ yêu cầu là phải dựa trên các chứng cứ mà các chứng cứ này đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử không áp đặt ý kiến chủ quan hoặc sử dụng những chứng cứ chưa được thẩm tra tại phiên tòa, các kết luận của bản án đã phần phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Các Bản án đã xác định đúng sự việc phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… từ đó áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự.

 Khi kết luận bị cáo phạm tội, Hội đồng xét xử đã viện dẫn các căn cứ buộc tội bị cáo, dựa vào các căn cứ đó để Hội đồng xét xử áp dụng xử phạt bị cáo với những mức hình phạt tương ứng. Ngược lại, nếu tuyên bố bị cáo không phạm tội, thì các bản án cũng đã  đưa ra các chứng cứ, các căn cứ để không chấp nhận việc truy tố của Viện kiểm sát.

Đây chính là những tác động tích cực mà sổ tay viết bản án và các hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã giúp cho các Thẩm phán khi ban hành các bản án nói chung và bản án hình sự nói riêng.

2.2. Thực tiễn hoạt động của Thẩm phán khi viết bản án hình sự

Mặc dù đa phần các Thẩm phán đều nghiên cứu và vận dụng đầy đủ và đúng các hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2004 và cuốn sổ tay viết bản án. Song qua nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi vẫn thấy các Thẩm phán khi viết bản án vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất trong cách trình bày cả về hình thức và nội dung như:

Về phần mở đầu của Bản án vẫn có sự không thống nhất về phần lý lịch của bị cáo như phân tích ở phần trên, ngoài ra vẫn còn có Thẩm phán chưa áp dụng đúng như hướng dẫn của cuốn sổ tay dẫn đến có mâu thuẫn trong việc ghi nhân thân của bị cáo. Như hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004 có hướng dẫn:

 “…Đối với tiền sự thì chỉ ghi khi đã xác định đúng theo quy định của pháp luật lần bị xử lý đó tính đến ngày phạm tội chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật. Đối với tiền án thì chỉ ghi khi đã xác định đúng theo quy định của pháp luật lần bị kết án đó tính đến ngày phạm tội chưa được xóa án…”. Song hiện nay, thực tế áp dụng cũng có những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng, trong trường hợp tiền sự đó đã hết thời hạn bị coi là bị xử lý hành chính hoặc đã thuộc trường hợp đương nhiên xóa án thì phần tiền án, tiền sự sẽ ghi là không. Có quan điểm lại cho rằng mặc dù đã hết thời hạn bị coi là xử lý hành chính hoặc đã được xóa án tích thì không ghi là tiền án hay tiền sự nhưng vẫn phải ghi trong phần đầu Bản án là “về nhân thân” và liệt kê những lần họ bị xử lý hành chính hay bị kết án trước đó. Vấn đề này hiện nay không được thống nhất đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn chỉ đạo để các Thẩm phán trình bày một cách thống nhất khi soạn thảo bản án hình sự.

Trong phần nhận thấy của Bản án, cũng có nhiều cách trình bày khác nhau. Có Thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung của bản Cáo trạng, có Thẩm phán vẫn đưa nguyên văn nội dung của bản Cáo trạng vào trong phần nhận thấy, thậm chí ghi cả những hành vi mà bản Cáo trạng có mô tả, song không truy tố, hoặc những vấn đề xử lý vật chứng, của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra và truy tố cũng ghi cả vào trong phần nhận thấy, dẫn đến trong phần xét thấy, khi đánh giá về vấn đề xử lý các vật chứng của vụ án, các Thẩm phán lại nêu lại làm Bản án rất dài và thừa. Về diễn biến phiên tòa, có Thẩm phán ghi tóm tắt lời khai của bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa, có Thẩm phán lại không ghi mà chỉ ghi “Tại phiên tòa hôm nay bị cáo (các bị cáo) nhận tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết”. Có Thẩm phán ghi ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, có Thẩm phán không ghi ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên. Đặc biệt ý kiến của người bào chữa, bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác khi tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát cũng như về phần đối đáp thì đa số các Thẩm phán đều không thể hiện trong bản án…

Trong phần xét thấy của Bản án, cũng có nhiều quan điểm khác nhau như: Có Thẩm phán ghi tóm tắt lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa rồi đi vào phân tích đánh giá những vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, xác định các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, đánh giá bị cáo có phạm tội không và phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, phân tích mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đánh giá vai trò nhân thân của bị cáo (từng bị cáo), xác định thiệt hại, xử lý vật chứng…

Có Thẩm phán lại đi thẳng vào phân tích đánh giá những vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, xác định các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, đánh giá bị cáo có phạm tội không và phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, phân tích mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đánh giá vai trò nhân thân của bị cáo (từng bị cáo), xác định thiệt hại, xử lý vật chứng… chứ không ghi lại lời trình bày của bị cáo hoặc người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hoặc ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên.

Trong phần quyết định của Bản án, cũng có nhiều quan điểm khác nhau, có Thẩm phán ghi mức hình phạt với từng bị cáo và thời gian chấp hành hình phạt mà không ghi cụ thể tội danh, có Thẩm phán lại ghi cụ thể về tội danh, trong vụ án có nhiều bị cáo thì có Thẩm phán liệt kê các điều luật của nhiều bị cáo giống nhau để ghi mức hình phạt, có thẩm phán lại liệt kê các điều luật áp dụng cho từng bị cáo để ghi mức hình phạt…

Chính sự vận dụng không thống nhất hiện nay của các Thẩm phán dẫn đến nhiều bản án không có tính thuyết phục, không thể hiện tính nghiêm minh của luật pháp, không nâng cao được vai trò và vị thế của Thẩm phán trong tiến trình của Cải cách tư pháp mà Tòa án là trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm như yêu cầu của Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị. Nhận xét về thực trạng không thống nhất trong cách trình bày bản án, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã từng nhận xét: “Đọc các bản án của Tòa, từ tối cao đến cấp huyện, tôi thấy còn rất nhiều vấn đề chưa thống nhất. Cách trình bày, căn cứ xét xử, lập luận của các bên, phần quyết định bản án mỗi nơi một khác”.

Để khắc phục những hạn chế trên, cần phải có những hướng dẫn cụ thể, thống nhất để các Thẩm phán khi ban hành một Bản án phải làm sao đảm bảo chính xác và có tính thuyết phục. Tính chính xác của bản án được thể hiện ở chỗ Bản án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tức là việc áp dụng pháp luật đúng đắn, phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, được dư luận đồng tình và đó cũng là tính thuyết phục cao của bản án. Tính thuyết phục của bản án còn thể hiện ở việc bản án phân tích sâu sắc, đầy đủ, hoàn thiện diễn biến và nội dung của vụ án, đánh giá đúng tính chất, mức độ, áp dụng đúng pháp luật để có quyết định hình phạt chính xác, đảm bảo nguyên tắc giáo dục và trừng trị.

Theo yêu cầu hiện nay, Bản án khi tuyên đọc là công khai và không chỉ giới hạn tại phiên tòa xét xử mà Bản án còn được đăng tải để mọi người dân đều có thể cập nhật nghiên cứu và cũng là một nguồn tài liệu quan trọng không chỉ trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân mà còn có tác dụng răn đe đối với những người có những ý định vi phạm hoặc coi thường các quy định của pháp luật.

Để đạt được mục đích đó, đòi hỏi các Bản án của Tòa án nói chung và Bản án hình sự nói riêng cần phải được thể hiện một cách trung thực, rõ ràng các diễn biến của phiên tòa công khai, thông qua hoạt động thẩm vấn tại phiên tòa, những ý kiến tranh luận và kết quả tranh luận của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đối với Cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát. Các chứng cứ được xử dụng của Hội đồng xét xử để buộc tội hoặc phản bác ý kiến của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa thậm chí Hội đồng xét xử còn có quyền phản bác cả ý kiến của đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa cần phải được phân tích đánh giá một cách chính xác và đầy đủ để khẳng định việc tuyên bố bị cáo phạm tội của Hội đồng xét xử là chặt chẽ, có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Trong vấn đề quyết định hình phạt, cũng cần có những đánh giá nhận xét chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tầm quan trọng của các khách thể mà hành vi phạm tội đã xâm phạm, vai trò của từng bị cáo trong các vụ án đồng phạm có nhiều người tham gia, nhân thân của người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên mức án phù hợp và có tính thuyết phục. Có như vậy, thì tất cả mọi người dân tham dự phiên tòa đều nhận thức được tính trung thực, công khai minh bạch của Hội đồng xét xử cũng như những người dân không dự phiên tòa khi đọc được Bản án hình sự của Tòa án có thể nắm bắt được nội dung của vụ án cũng như hiểu được chính sách hình sự của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay và nhận thấy việc xét xử và quyết định hình phạt của Tòa án là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tạo được niềm tin của nhân dân đối với pháp luật của nhà nước hiện nay.

2.3. Một số kiến nghị

Để đạt được mục đích trên, theo chúng tôi, hiệu quả của các hướng dẫn trong cuốn sổ tay viết Bản án đã được ghi nhận tích cực trong thời gian qua song để đảm bảo Bản án khi ban hành phải chính xác và có tính thuyết phục hơn nữa thì cũng cần phải có hướng dẫn phù hợp, bảo đảm đúng tinh thần của Nghị quyết số 08/NQ/TW Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư­ pháp trong thời gian tới đó là bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà”. Và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến l­ược cải cách tư­ pháp đến năm 2020 mà Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp và hoạt động xét xử là trọng tâm”. Để khắc phục tình trạng trên, nhằm thống nhất kỹ năng viết bản án nói chung và bản án hình sự nói riêng, qua tổng hợp các ý kiến tại các cuộc Hội thảo do Vụ hợp tác quốc tế phối hợp cùng các chuyên gia của tổ chức Jica tổ chức tại các tỉnh Quảng Ninh, Bình Định, Kiên Giang vừa qua, chúng tôi có một số đề xuất về kỹ năng viết bản án hình sự theo mẫu được xây dựng như sau:

TÒA ÁN (1)…       CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                                       Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số   (2)…/…/HSST

Ngày (3)….

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN (4)………………………………….

Với  Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có (5):

Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông (Bà)………………………..

Thẩm phán: Ông (Bà)…………………………………………………….

Các Hội thẩm:(6)

Ông (Bà):…………………………………………………………………….

Nghề nghiệp:……………………………………………………………….

Nơi công tác:………………………………………………………………..

Ông (Bà):……………………………………………………………………..

Nghề nghiệp:…………………………………………………………………

Nơi công tác:…………………………………………………………………

 Ông (Bà):……………………………………………………………………..

Nghề nghiệp:………………………………………………………………….

Nơi công tác:………………………………………………………………….

Những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa.    

Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông (Bà)……………(7)

Đại diện Viện kiểm sát (8)………………….. Tham gia phiên toà:

   Ông (Bà)…………………………………………………Kiểm sát viên.

   Ông (Bà)…………………………………………………Kiểm sát viên.

Trong các ngày….. Tháng….. Năm….. (9) tại……………………….

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số (10)…../…../HSST ngày….. Tháng….. Năm….. Đối với các bị cáo:

  1. …………………… Sinh ngày….. Tháng….. Năm….. Nam (nữ)

Quê quán, Trú tại…………………………;

Dân tộc…….; Quốc tịch……; Tôn giáo…..; Đoàn thể….

Nghề nghiệp…………………..; Trình độ học vấn…….;

Con ông………………………. Và bà……………………… ;

Gia đình có….. anh em, bản thân là thứ ….

có vợ (chồng)…. và…… Con, lớn sinh… nhỏ sinh…;

tiền sự…………; Tiền án (11)………….;

Bị bắt tạm giam ngày (12).

2……………………………………………………………………………

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: (13)

Ông (Bà)…………………….. Sinh năm (hoặc tuổi)……..;

Trú tại………; Nghề nghiệp………….

Là: (14)…………………………………………………………………..

Người bào chữa cho bị cáo: (15)………………………………………..

Ông (Bà)……………………………………………………………………….

Người bị hại: (16)   …………………………………………………….

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: (17)……………………

Nguyên đơn dân sự: (18)……………………………………………..

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: (19)…………

Bị đơn dân sự: (20)…………………………………………………………..

Người đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự: (21)…………………

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: (22)……….

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án(23):……………………………………………………………

Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại (nguyên đơn dân sự,…)(24)

Ông (Bà)…………………………………………………………………

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN (25)

– Bị cáo (các bị cáo) bị Viện kiểm sát……………………… Truy tố về hành vi (các hành vi) phạm tội như sau:

(Trình bày việc phạm tội, các hành vi phạm tội của bị cáo (các bị cáo) mà Viện kiểm sát truy tố theo nội dung của cáo trạng).

– Tại bản cáo trạng số….. Ngày….. Tháng….. Năm….. Viện kiểm sát…………. Đã truy tố.

(Ghi phần quyết định truy tố của cáo trạng đối với từng bị cáo về tội danh và điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng).

Ghi tóm tắt lời khai của bị cáo (các bị cáo), lời khai của những người tham gia tố tụng khác, ý kiến của đại diện VKS, người bào chữa tại phiên tòa. Sau đó ghi

 Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa (nếu có) và những người tham gia tố tụng khác,

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ XÉT THẤY(26)

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH (27)

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

Hướng dẫn sử dụng mẫu bản án hình sự sơ thẩm nêu trên:

Mẫu bản án hình sự sơ thẩm như trình bày ở trên theo chúng tôi, vẫn bảo đảm được theo tinh thần quy định tại các điều 185, 224 và 307 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Mẫu bản án hình sự sơ thẩm kèm theo hướng dẫn này được sử dụng cho tất cả các Toà án khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Sau đây là những hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng mẫu bản án hình sự sơ thẩm như đã nêu, trên cơ sở sửa đổi và bổ sung một số thuật ngữ cho phù hợp:

(1) Nếu là Toà án quân sự khu vực, thì ghi Toà án quân sự khu vực mấy Quân khu nào (ví dụ: Toà án quân sự khu vực 1 quân khu 4); nếu là Toà án quân sự quân khu thì ghi Toà án quân sự quân khu nào (ví dụ: Toà án quân sự Quân khu Thủ đô); nếu là Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì ghi Toà án nhân dân quận (huyện, thị xã, thành phố) gì thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Toà án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An); nếu là Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì ghi Toà án nhân dân tỉnh (thành phố) nào (ví dụ: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội).

(2) Ô thứ nhất ghi số bản án, ô thứ hai ghi năm ra bản án theo đúng tinh thần hướng dẫn của Chính phủ về cách ghi số văn bản (ví dụ: Bản án số 250/2004/HSST).

(3) Ghi ngày, tháng, năm tuyên án không phân biệt vụ án được xét xử sơ thẩm và kết thúc trong một ngày hay được xét xử sơ thẩm trong nhiều ngày.

(4) Ghi như hướng dẫn tại điểm (1).

(5) Nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm ba người, thì chỉ ghi họ và tên của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, bỏ dòng “Thẩm phán…”, Đối với Hội thẩm chỉ ghi họ và tên của hai Hội thẩm; nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có năm người, thì ghi họ và tên của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa, họ và tên của Thẩm phán, họ và tên của cả ba Hội thẩm. Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, thì nhất thiết phải ghi nghề nghiệp và nơi công tác của Hội thẩm. Trong trường hợp bị cáo là người đã thành niên thì không cần phải ghi nghề nghiệp và nơi công tác của Hội thẩm.

Chúng tôi kiến nghị nên bỏ chữ “thành phần” và  chỉ cần ghi “Với Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có” thêm cụm từ “những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa”, sau khi đã ghi tên Hội đồng xét xử. Vì nếu để hai chữ “thành phần” thì dẫn đến sự hiểu lầm của người dân đến dự phiên tòa cho rằng, Hội đồng xét xử bao gồm cả Thư ký phiên tòa và đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa. việc sửa đổi và bổ sung như vậy, tránh sự hiểu lầm của người dân tham dự phiên tòa và cũng phân định rõ đâu là Hội đồng xét xử, đâu là những người tiến hành tố tụng. Đối với Hội thẩm nhân dân thì trong mọi trường hợp, đều phải ghi đầy đủ nghề nghiệp và nơi công tác của Hội thẩm, chứ không chỉ đối với trường hợp bị cáo là người chưa thành niên.

(6) Nếu Toà án nhân dân, thì ghi Hội thẩm nhân dân; nếu Toà án quân sự, thì ghi Hội thẩm quân nhân. Không nên để số 1, 2 vào phần ghi các Hội thẩm dễ xảy ra việc hiểu lầm là có sự phân biệt giữa các Hội thẩm là Hội thẩm số 1 quan trọng hơn Hội thẩm số 2.

(7) Theo chúng tôi, chỉ cần ghi “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: ông Nguyễn Văn A hoặc bà Nguyễn Thị B” là đủ chứ không cần ghi “Cán bộ Tòa án nhân dân…” nơi xét xử như mẫu cũ, vì Thư ký là chức danh tố tụng được quy định tại Điều 41 BLTTHS và chỉ có Thư ký mới được tham gia và ghi biên bản phiên tòa. Nếu là cán bộ thì không thể tham gia phiên tòa để ghi biên bản được và không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hơn nữa phần trên đã ghi rõ Tòa án nào xử nên không cần phải ghi lại nữa là phù hợp.

(8) Ghi như hướng dẫn tại điểm (1), song đổi các chữ “Tòa án nhân dân” thành “Viện kiểm sát nhân dân” và “Tòa án quân sự” thành “Viện kiểm sát quân sự”; nếu chỉ có một Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì chỉ ghi họ và tên của Kiểm sát viên đó; nếu có hai Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì phải ghi đầy đủ họ và tên của cả hai Kiểm sát viên đó. Song chúng tôi cũng kiến nghị không nên để số 1, 2 như mẫu cũ để tránh sự so sánh như phần ghi các Hội thẩm.

(9) Trong trường hợp vụ án được xét xử và kết thúc trong một ngày, thì bỏ hai chữ “Trong các” (ví dụ: Ngày 12 tháng 4 năm 2004…).

Trong trường hợp vụ án được xét xử trong hai ngày trở lên, nếu số ngày tương đối ít thì có thể ghi đủ số ngày (ví dụ: Trong các ngày 3, 4 và 5 tháng 7…); Nếu số ngày nhiều liền nhau thì ghi từ ngày đến ngày (ví dụ: Trong các ngày từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 7 năm…); Nếu khác tháng mà xét xử liên tục thì ghi từ ngày… Tháng… Đến ngày… Tháng… (ví dụ: Trong các ngày từ ngày 30-7 đến ngày 04-8 năm…), Nếu không xét xử liên tục thì ghi các ngày của từng tháng (ví dụ: trong các ngày 29, 30, 31 tháng 7 và các ngày 03, 04 tháng 8 năm…

(10) Ô thứ nhất ghi số thụ lý sơ thẩm vụ án, ô thứ hai ghi năm thụ lý vụ án theo đúng tinh thần hướng dẫn của Chính phủ về cách ghi số văn bản và sau đó ghi ngày, tháng, năm thụ lý vụ án (ví dụ: Vụ án hình sự thụ lý số 175/2004/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2004).

(11) Ghi họ và tên bị cáo và các bí danh, tên thường gọi khác (nếu có).

Phần này, chúng tôi kiến nghị trong mọi trường hợp đều nhất thiết phải ghi đầy đủ ngày, tháng, năm sinh, chứ không phụ thuộc vào tuổi của bị cáo như hướng dẫn, việc ghi đầy đủ ngày, tháng, năm sinh còn thuận lợi cho việc thi hành án sau này. Thực tế có nhiều vụ án các bị cáo trùng cả họ và tên cũng như tên đệm, trùng cả năm sinh nhưng chỉ khác nhau về ngày, tháng. Nếu chúng ta không ghi rõ rất dễ nhầm lẫn khi ra quyết định  thi hành án. Cần bổ sung về phần giới tính, Quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, đoàn thể để bản án được rõ ràng và thuận lợi cho công tác thống kê sau này. Thực tế có những bị cáo cha mẹ đặt tên khi đọc nên không thể phân biệt được là nam hay nữ, chỉ khi nhìn mặt thì mới biết là nam hay nữ. Thông thường nếu là nữ thì hay có chữ “Thị” để phân biệt nhưng hiện nay rất nhiều người là nữ nhưng khai sinh lại không có chữ “Thị”.  Cũng cần phải ghi đầy đủ cả quê quán, nơi đang ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở khi bị cáo phạm tội, vì có những bị cáo quê quán một nơi, lại đăng ký hộ khẩu một nơi, tạm trú một nơi… Nếu không ghi đầy đủ rất khó xác minh thi hành án sau này.  Cần thống nhất về phần trình độ là “trình độ học vấn” như vậy sẽ cụ thể hơn. Còn như mẫu hiện nay là “trình độ văn hóa” theo chúng tôi là không chính xác vì khái niệm văn hóa là khái niệm rất rộng không thể phiên ngang như trình độ học vấn được. Thực tế văn hóa bao trùm trong suốt cuộc đời con người từ ứng xử, ăn, nói, đi, đứng cũng như gắn với mọi hoạt động của con người từ khi con người sinh ra đến khi con người mất đi. Thực tế, có những người có học vấn cao nhưng cánh ứng xử lại thô lỗ không bằng người có học vấn thấp nên không thể có tiêu chí cụ thể nào để phân định về  trình độ văn hóa được.

 Đối với tiền sự thì chỉ ghi khi đã xác định đúng theo quy định của pháp luật lần bị xử lý đó tính đến ngày phạm tội chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật. Đối với tiền án thì chỉ ghi khi đã xác định đúng theo quy định của pháp luật lần bị kết án đó tính đến ngày phạm tội chưa được xoá án.

Chúng tôi thấy, hướng dẫn về ghi phần tiền án, tiền sự như vậy là rõ ràng. Song hiện nay rất nhiều bản án khi xác định về tiền án, tiền sự mặc dù đến ngày phạm tội họ đã hết thời hạn bị coi là xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật hoặc đã được xóa án tích nhưng trong bản án vẫn ghi là “về nhân thân” và liệt kê những lần vi phạm đó ra. Theo chúng tôi như vậy là không phù hợp, dễ để Thẩm phán có ấn tượng với họ dẫn đến việc quyết định hình phạt không được chính xác và vô tình chúng ta đã phủ nhận quyết tâm hướng thiện của họ, dẫn đến trường hợp hành vi của họ đáng được hưởng án treo nhưng lại không được hưởng. Ví dụ có người bị xử lý hành chính về hành vi đánh bạc đã quá một năm hoặc phạm tội đã được xóa án nhưng lại phạm tội ít nghiêm trọng hoặc do vô ý như “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Nhưng trong bản án vẫn nhận định họ có nhân thân xấu là không phù hợp trái với quy định tại Điều 63 là “…Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án…”.

(12) Ghi ngày bị cáo bị bắt tạm giam; nếu trước đó bị cáo đã bị tạm giữ, bị bắt tạm giam, thì ghi ngày bị tạm giữ, ngày bị tạm giam và ngày được cho tại ngoại; nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.

(13) Nếu bị cáo nào có người đại diện hợp pháp thì ghi họ và tên của bị cáo đó (ví dụ: Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn A).

(14) Sau chữ “là” ghi quan hệ như thế nào với bị cáo (ví dụ: là bố của bị cáo); nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.

(15) Nếu bị cáo nào có người bào chữa thì ghi họ và tên của bị cáo đó; sau chữ Ông (Bà) ghi họ và tên của người bào chữa; nếu người bào chữa là luật sư thì ghi luật sư của Văn phòng luật sư nào và thuộc Đoàn luật sư nào (ví dụ: Ông Trần B, Luật sư Văn phòng luật sư Vạn Xuân thuộc Đoàn luật sư tỉnh H); nếu không phải là luật sư thì ghi nghề nghiệp, nơi công tác của người bào chữa (ví dụ: Bà Lê Thị M, bào chữa viên nhân dân công tác tại Hội luật gia tỉnh M); nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.

(16), (17), (18), (19), (20), (21), (22), (23) Nếu có người nào tham gia tố tụng thì ghi họ và tên, tuổi, nơi cư trú của người đó. Trong trường hợp người bị hại là người bị xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và là người chưa thành niên, thì nhất thiết phải ghi đầy đủ ngày, tháng, năm sinh của người bị hại; nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.

(24) Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có người bảo vệ quyền lợi cho họ, thì ghi họ và tên của họ theo thứ tự; sau chữ Ông (Bà) ghi họ và tên; nếu người bảo vệ quyền lợi của đương sự là luật sư thì ghi luật sư của Văn phòng luật sư nào và thuộc Đoàn luật sư nào; nếu không phải là luật sư thì ghi nghề nghiệp, nơi công tác của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự; nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.

(25) Trong phần này, cần chú ý chỉ ghi các hành vi phạm tội của các bị cáo mà Viện kiểm sát truy tố trong nội dung của cáo trạng, những hành vi khác tuy có được mô tả trong cáo trạng, nhưng Viện kiểm sát không truy tố thì không ghi.

Chúng tôi kiến nghị về phần này như sau: Hiện mẫu viết bản án đang để cụm từ “Nhận thấy”. Theo chúng tôi, để như vậy vừa không rõ nghĩa và không thoát ý, do vậy cần đổi là “Tóm tắt nội dụng vụ án” sẽ cụ thể và rõ nghĩa hơn. Đây chỉ là phần mô tả hành vi phạm tội của bị cáo theo như nội dung của bản cáo trạng, nên cần ghi hết sức tóm tắt, có thể chỉ cần ghi phần kết luận trong bản Cáo trạng, sau đó bổ sung thêm một số ý làm sao phản ánh được về thời gian, địa điểm vụ án xảy ra, con người phạm tội cụ thể, những hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra… Từ đó, mới đến phần Cáo trạng truy tố bị cáo về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự, những phần khác như về tang vật của vụ án, hoặc những người khác có tham gia nhưng không bị truy tố thì cũng không cần ghi ở phần này mà để phân tích ở phần nhận định để tránh phải ghi lại nhiều lần dẫn đến bản án dài không cần thiết. Song cần bắt buộc phần này phải ghi tóm tắt được lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa, ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của người bào chữa, kết quả đối đáp của đại diện Viện kiểm sát với ý kiến của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Có như vậy khi chúng ta bắt vào đoạn “Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa (nếu có) và những người tham gia tố tụng khác” để chuyển sang phần “xét thấy” mới logic và chặt chẽ.

(26) Trong phần này chỉ ghi sự phân tích và đánh giá của Hội đồng xét xử bao gồm:

– Phân tích và đánh giá những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên toà;

– Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội;

– Đánh giá bị cáo có phạm tội không và nếu bị cáo có phạm tội, thì phạm tội gì, theo khoản nào, điều nào của Bộ luật hình sự;

– Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo;

– Đánh giá thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có);

– Hướng giải quyết về xử lý vật chứng (nếu có). Chúng tôi hoàn toàn đồng ý như hướng dẫn song để cụm từ “Xét thấy” như hiện nay là không phù hợp, về ngữ pháp là thiếu chủ ngữ vì ai xét thấy? Do vậy theo chúng tôi cần bổ sung là “Hội đồng xét xử xét thấy” là đầy đủ và đúng ngữ pháp hơn.

(27) Trong phần này ghi các quyết định của Toà án và quyền kháng cáo đối với bản án như sau:

  1. Trường hợp bị cáo có phạm tội:

– Tuyên bố bị cáo (các bị cáo)… Phạm tội (các tội)… (bị cáo nào phạm tội nào thì ghi tội đó);

– Áp dụng điểm… Khoản… Điều… Của Bộ luật hình sự; nếu có nhiều bị cáo phạm các tội khác nhau, thì ghi áp dụng điểm… Khoản… Điều… Của Bộ luật hình sự đối với bị cáo (các bị cáo)… Và áp dụng điểm… Khoản… Điều… Của Bộ luật hình sự đối với bị cáo (các bị cáo)…;

– Xử phạt bị cáo… (ghi tên từng bị cáo và mức hình phạt). Tiếp đó ghi thời điểm để tính thời hạn chấp hành hình phạt; nếu cho bị cáo được hưởng án treo thì cần giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Trong trường hợp cần tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành hình phạt tử hình thì ghi: “tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án”. Nếu vụ án có một bị cáo hoặc nhiều bị cáo nhưng phạm một tội thì chúng ta chỉ cần ghi mức hình phạt, chứ không cần nhắc lại tên tội danh. Trong trường hợp bị cáo phạm nhiều tội thì chúng ta mới phải ghi mức hình phạt của từng tội danh cụ thể để tổng hợp cho rõ ràng.

– Việc bồi thường thiệt hại: Cần thiết phải ghi: áp dụng khoản… Điều… (tương ứng) của Bộ luật dân sự buộc…; cần phải tuyên rõ ràng, cụ thể từng phần của các bị cáo phải bồi thường nhất là trong trường hợp các bị cáo phải liên đới bồi thường. Để thực hiện đúng theo các quy định của Luật thi hành án dân sự, đối với các vụ án có quyết định vấn đề bồi thường thì phần quyết định cũng cần ghi: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

– Việc xử lý vật chứng (nếu có) cần theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

– Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm;

– Quyền kháng cáo đối với bản án. Đối với bị cáo bị xử phạt tử hình thì cần ghi thêm: “nếu họ không kháng cáo, thì họ có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo”.

  1. Trong trường hợp bị cáo không phạm tội:

Căn cứ vào khoản… Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự;

– Tuyên bố bị cáo không phạm tội;

– Giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

– Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có);

– Việc xử lý vật chứng (nếu có);

– Về án phí (nếu có);

– Quyền kháng cáo đối với bản án.

  1. Nếu bị cáo bị tuyên hình phạt trục xuất, thì Hội đồng xét xử cũng phải tuyên cả thời gian bị cáo phải rời khỏi Việt Nam.
Nơi nhận:

(Ghi những nơi mà Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án theo quy định tại Điều 229 của Bộ luật tố tụng hình sự và những nơi cần lưu bản án chính)

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà

Ký tên và đóng dấu của Toà án

(Họ và tên)

Phần cuối cùng của bản án, nếu là bản án gốc được thông qua tại phòng nghị án thì cần phải có đầy đủ chữ ký, họ và tên của các thành viên Hội đồng xét xử; nếu là bản án chính thì cần ghi như sau:

BÀI 7:

KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT PHẦN BỒI THƯỜNG DÂN SỰ

TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

 

Giải quyết bồi thường dân sự là một nội dung quan trọng, không thể thiếu trong quá trình Tòa án xét xử vụ án hình sự. Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự”.

 Như vậy, khi giải quyết vụ án hình sự, ngoài phần xem xét, quyết định về trách nhiệm hình sự như xem xét, đánh giá tính chất nghiêm trọng của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ; nhân thân của bị cáo; đối chiếu với quy định của pháp luật về tội danh, điều luật áp dụng để quyết định hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án còn phải giải quyết một nội dung quan trọng khác, đó là: buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt; sửa chữa hoặc bồi thường vật chất đối với những thiệt hại mà người phạm tội đã gây ra; trong trường hợp người phạm tội gây thiệt hại về tinh thần thì còn phải bồi thường bằng vật chất và công khai xin lỗi người bị hại như quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là việc Tòa án buộc người phạm tội (bị cáo) phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với những thiệt hại do hành vi mà người phạm tội đã gây ra. Đây là những thiệt hại mà giữa người phạm tội (bị cáo) và người bị hại không có hợp đồng hay thỏa thuận gì trước nên pháp luật quy định đây là thiệt hại ngoài hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên trong một số trường hợp có sự thỏa thuận trước giữa bị cáo với người bị hại như thỏa thuận vay, mượn tiền, tài sản, thỏa thuận hợp đồng mua bán… nhưng sau đó do người đã nhận tiền, tài sản không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết ban đầu dẫn đến phải chịu trách nhiệm hình sự, thì người phạm tội phải bồi thường thiệt hại (nếu có) ngoài trách nhiệm dân sự như nội dung thỏa thuận ban đầu, đó là trường hợp phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hoặc “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”…

Để giải quyết phần bồi thường dân sự trong vụ án hình sự có căn cứ, đúng pháp luật, đòi hỏi khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cần chú ý làm rõ người phạm tội đã gây thiệt hại mức độ như thế nào? Trong vụ án có đồng phạm thì mức độ gây thiệt hại của mỗi đồng phạm ra sao? Người bị thiệt hại là ai, ở đâu và người bị thiệt hại này có ý kiến, đề nghị thế nào? Ngoài lời khai người bị hại đã khai báo với cơ quan Điều tra thì người bị hại có văn bản đề nghị cụ thể như thế nào? Trong quá trình điều tra, người phạm tội đã tự nguyện hay thông qua người thân của mình bồi thường được bao nhiêu đối với người bị thiệt hại. Đây không chỉ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình mà còn là một nội dung nếu có sẽ được trừ vào phần nghĩa vụ bồi thường cho người phạm tội.

Việc Tòa án buộc người phạm tội (bị cáo) phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại do hành vi của người phạm tội gây ra, phải căn cứ vào quy định tại các Điều luật tương ứng của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết, phải đảm bảo các quy định về cơ sở của trách nhiệm dân sự; nguyên tắc bồi thường; về tư cách, năng lực bồi thường và các quy định khác của pháp luật.

  1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG DÂN SỰ
  2. Cơ sở của trách nhiệm bồi thườngdân sự

Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

  1. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.

Theo quy định của Điều luật nói trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:

1.1. Phải có thiệt hại xảy ra

Thiệt hại là những tổn thất về người; mất mát, hư hỏng về của cải vật chất hoặc tinh thần. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.

  1. a) Thiệt hại về vật chất bao gồm:

   – Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS;

   – Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS;

– Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS;

– Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.

  1. b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm… nên cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

   – Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.

1.2. Phải có hành vi trái pháp luật

Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật (hành vi bị pháp luật cấm). Hành vi này chính là hành vi phạm tội mà người phạm tội đã gây ra.

   1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật

Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Có nghĩa là hành vi của người phạm tội (bị cáo) là nguyên nhân, thiệt hại của người bị hại là hậu quả. Hành vi phạm tội của bị cáo tất yếu gây ra hậu quả đối với người bị hại.

 Ví dụ: Bị cáo có hành vi châm lửa đốt xe ô tô của người bị hại thì tất yếu dẫn đến hậu quả là ô tô bị cháy nếu không được cứu chữa kịp thời hoặc hành vi của bị cáo dùng dao quắm chém nhiều nhát vào người bị hại, tất yếu dẫn đến thương tích hoặc có thể gây tổn hại tính mạng người bị hại.

1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại

Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả hành vi phạm tội được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.

  1. a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốnthiệt hại xảy rahoặc không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

Ví dụ: Biết là dùng dao bầu đâm vào vị trí nguy hiểm sẽ gây chết người nhưng vì thù tức và muốn giết A nên B vẫn đâm A, hậu quả là A bị tử vong.

  1. b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù pháp luật buộc phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

 Ví dụ: C điều khiển xe ô tô chở khách, biết là phóng nhanh vượt ẩu có thể gây tai nạn nhưng để đón được nhiều khách, C đã phóng nhanh, giành đường đón khách dẫn đến xe ô tô do C điều khiển đã đâm vào người điều khiển xe máy đi đúng phần đường quy định, hậu quả làm người điều khiển xe máy bị thương nặng, xe máy bị hỏng.

   Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó (Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra).

Ví dụ: thực hiện hợp đồng đổ đất san nền để làm sân vận động, xe ô tô tải của công ty trách nhiệm hữu hạn Toàn Thắng đã gây tai nạn làm chết người thì công ty TNHH Toàn Thắng có nghĩa vụ (thay cho lái xe) phải bồi thường thiệt hại người chết.

  1. Vềnguyên tắc bồi thường thiệt hại

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự:

   “1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

  1. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
  2. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường”.

* Với quy định của Điều luật như trên thì:

2.1. Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phải thực hiện đúng nguyên tắc là bồi thường toàn bộ và kịp thời; phải tôn trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

2.2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần chú ý:

  1. a) Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là thiệt hại tới đâu, bồi thường tới đó. Khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của Bộ luật dân sự quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
  2. b) Để người bị thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định cụ thể là quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 176 về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Điều 242 về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự) cũng như quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 179 về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và Điều 258 về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự).

 Trong trường hợp cần thiết để đảm bảo kịp thời quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người bị hại, tùy từng giai đoạn, cơ quan tiến hành tố tụng có thể cho người phạm tội hoặc thân nhân của người phạm tội thực hiện bồi thường trước cho người bị hại. Ví dụ: Trong vụ án bị cáo phạm tội cố ý gây tổn hại sức khỏe người khác, tại giai đoạn điều tra, người có hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe đã bồi thường người bị hại một khoản tiền để người bị hại chi phí tiền viện phí, cấp cứu và bồi dưỡng sức khỏe.

Hoặc để tránh việc người phạm tội tẩu tán tài sản khó khăn cho công tác thi hành án sau này thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.

   Để bảo vệ quyền lợi chính đáng, kịp thời của người bị hại, pháp luật cũng quy định chặt chẽ thời hạn Tòa án phải giải quyết vụ án, cụ thể Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:

  1.   Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
  2. a) Đối với tranh chấp dân sự (Điều 25 BLTTDS), tranh chấp Hôn nhân – gia đình (Điều 27 BLTTDS) thời hạn là 04 (bốn) tháng kể từ ngày thụ lý vụ án.
  3. b) Đối với tranh chấp về kinh doanh – thương mại (Điều 29 BLTTDS), tranh chấp lao động (Điều 31 BLTTDS) thời hạn là 02 (hai) tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

 Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định ra hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 02 (hai) tháng đối với vụ án quy định tại điểm a và 01 (một) tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b nêu trên.

  1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử nói trên, Tòa án phải ra một trong những quyết định sau: Công nhận sự thỏa thuận của đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
  2. Trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 (hai) tháng.

* Điều 258 BLTTDS, về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:

  1. Trong thời hạn 02 (hai) tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau:
  2. a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
  3. b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
  4. c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đối với vụ án có tính chất phức tạp do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 (một) tháng.
  5. Trong thời hạn 01 (một) tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 (hai) tháng.
  6.  c) Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau đây:

   – Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

   – Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

  1. d) Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại…

 Ví dụ A bị xét xử về tội giết người. Ngoài hình phạt tù, A còn phải cấp dưỡng nuôi con của người bị hại mỗi tháng 100.000 đồng, do biến động của giá cả thị trường, đồng tiền mất giá nên đại diện người bị hại đã yêu cầu Tòa án buộc A phải tăng khoản tiền cấp dưỡng nuôi con người bị hại lên 550.000 đồng/tháng.

  1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp người chưa thành niên phạm tội nên khi xét xử, ngoài áp dụng đúng chính sách pháp luật về hình sự, cần nắm chắc Điều 606 Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 để xác định trách nhiệm bồi thường cho phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể như sau:

3.1. Cần xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp như sau:

– Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự (người đủ 18 tuổi);

– Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự (người dưới 15 tuổi);

– Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi);

– Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự (người chưa thành niên).

3.2. Việc quyết định về bồi thường (lấy tài sản để bồi thường) phải cụ thể và theo đúng quy định tại Điều 606 BLDS.

Như vậy, vấn đề bồi thường dân sự trong vụ án hình sự thì: đối với bị cáo đã đủ 18 tuổi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bị cáo; trường hợp bị cáo dưới 15 tuổi thì trách nhiệm bồi thường thuộc về cha mẹ của bị cáo; trường hợp bị cáo đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì bị cáo phải bồi thường bằng tài sản riêng của mình, nếu bị cáo không đủ tài sản để bồi thường thì bố mẹ bị cáo phải bồi thường thay cho bị cáo phần còn thiếu; trường hợp bị cáo là người chưa thành niên thì người giám hộ phải chịu trách nhiệm bồi thường; trường hợp có đồng phạm thì các đồng phạm phải liên đới bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại mà mình đã gây ra trên cơ sở mức độ thiệt hại và mức độ lỗi mà mỗi đồng phạm đã gây ra.

  1. Xác địnhchi phí hợp lý

 Chi phí hợp lý là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.

Xác định đúng chi phí hợp lý là xác định đúng thiệt hại có ý nghĩa rất quan trọng, giúp việc ra quyết định bồi thường đúng đắn, vừa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị hại cũng không làm thiệt hại đến quyền lợi của người phải bồi thường.

   Bộ luật dân sự quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 609 (thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm); điểm b và điểm c khoản 1 Điều 610 (thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm) và điểm a khoản 1 Điều 611 (thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm) đều quy định về các khoản chi phí hợp lý.

Các khoản cụ thể sẽ được đề cập chi tiết trong từng loại bồi thường đề cập ở phần sau.

  1. Nghĩa vụ chứng minh của các đương sự

Nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự:

  1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
  2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
  3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
  4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.

Nghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về nghĩa vụ chứng minh của đương sự như sau:

  1. a) Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại.
  2. b) Người gây thiệt hại yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại phải có tài liệu, chứng cứ về khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình không đủ để bồi thường toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đã xảy ra.
  3. c) Người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại phải có đơn xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại. Kèm theo đơn là các tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại.
  4. d) Việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trong tố tụng dân sự nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, có nghĩa là người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ họ tên, địa chỉ nơi cư trú (nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, nơi đăng ký tạm trú) của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhân chứng… có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu mình đưa ra là có căn cứ. Ngược lại bị đơn hoặc người có quyền, nghĩa vụ liên quan nếu có ý kiến không chấp nhận hoặc phản bác yêu cầu của người khởi kiện thì có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu và chứng cứ mà nguyên đơn đưa ra là không có căn cứ đồng thời có nghĩa vụ chứng minh cho ý kiến và yêu cầu mà mình đưa ra. Nếu đương sự nào không đưa ra được chứng cứ để chứng minh thì ý kiến, yêu cầu của đương sự đó không được chấp nhận mà còn có thể phải chấp nhận chứng cứ do bên kia đưa ra (nếu có căn cứ).

Trong vụ án hình sự, cơ quan Điều tra chứng minh người phạm tội cũng đồng nghĩa với chứng minh người có hành vi gây thiệt hại và xác minh, thu thập chứng cứ về người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan một cách tương đối đầy đủ. Tuy nhiên khi xét xử, để giải quyết đúng pháp luật phần trách nhiệm dân sự, Tòa án vẫn phải thận trọng kiểm tra để nếu đương sự nào có sự thay đổi (thay đổi về yêu cầu, thay đổi về địa chỉ, thay đổi về tư cách trong quá trình tham gia tố tụng…) thì Tòa án có điều chỉnh chính xác và kịp thời, tránh được những sai sót, tránh được khó khăn cho công tác thi hành án sau này; đồng thời Tòa án cũng cần kiểm tra về yêu cầu của đương sự trước khi quyết định về vụ án vì trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền tự định đoạt.

Trong quá trình giải quyết vụ án, khi người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại cho mình thì Tòa án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ xem trong giai đoạn điều tra, cơ quan Điều tra đã thu thập đầy đủ chưa, nếu còn thiếu thì yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ, tài liệu để chứng minh về thiệt hại mà người phạm tội đã gây ra. Trường hợp đương sự không thể bổ sung vì những tài liệu chứng cứ đó chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới thu thập được thì phải dừng phiên tòa, trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để điều tra bổ sung (đối với phiên tòa sơ thẩm); ở Tòa án cấp phúc thẩm mà thiếu những chứng cứ tài liệu đó thì có thể bị hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

Trong một số trường hợp như chưa xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc đã xác định được nhưng khi xét xử không biết họ ở đâu hoặc tuy đã xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự nhưng họ chưa có yêu cầu trả lại những vật, tiền bạc đã bị người phạm tội chiếm đoạt, chưa có yêu cầu phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, chưa chứng minh được đầy đủ thiệt hại do tội phạm gây ra thì có thể tách phần bồi thường thiệt hại đó để giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi những người này có yêu cầu. Đối với trường hợp này, Tòa án chỉ thụ lý để giải quyết phần dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, người bị hại có yêu cầu xuất trình tài liệu, chứng cứ. Đó có thể là hóa đơn, chứng từ, hoặc giấy xác nhận chi phí về cấp cứu, điều trị ở bệnh viện, chi phí bồi dưỡng sức khỏe, chi phí tìm kiếm, sửa chữa tài sản, thu nhập bị mất, bị giảm sút; đối với trường hợp chết người thì đại diện người bị hại chứng minh về chi phí mai táng… còn phía bị cáo có nghĩa vụ chứng minh nếu không chấp nhận yêu cầu và chứng cứ tài liệu mà người bị hại đưa ra.

  1. MỘT SỐ KỸ NĂNG CỤ THỂ VỀ GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

Điều 42 Bộ luật hình sự quy định:

  1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
  2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.

Theo quy định trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở đây gồm thiệt hại về tài sản; thiệt hại về sức khỏe; tính mạng; danh dự, nhân phẩm, uy tín và thiệt hại về tinh thần.

  1. Kỹ năng giải quyết bồi thường thiệt hại về tài sản

Tài sản bị xâm phạm được xác định là thiệt hại gồm:

1.1. Tài sản bị mất. Ví dụ trong vụ án bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích, do bị cáo tấn công, người bị hại bỏ chạy, trong lúc chạy thì chiếc đồng hồ đeo tay trị giá 5.000.000 đồng văng ra rơi xuống sông, không tìm thấy được. Trong trường hợp này ngoài trách nhiệm bồi thường thương tích, bị cáo còn phải bồi thường tài sản bị mất là trị giá chiếc đồng hồ nói trên cho người bị hại.

1.2. Tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; Ví dụ do có mâu thuẫn từ trước, bị cáo đã  bật lửa đốt cháy chiếc xe gắn máy trị giá 7.000.000 đồng của người bị hại. Trong trường hợp này, bị cáo phải bồi thường toàn bộ thiệt hại là trị giá chiếc xe gắn máy đó.

1.3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; Ví dụ bị cáo phạm tội xâm phạm chỗ ở của người khác, bị cáo đã đánh đuổi cả gia đình chủ sở hữu và những người đang ở trong nhà ra khỏi nhà, trong số đó có 2 người đang ở thuê khiến chủ nhà không thu được tiền thuê nhà. Trường hợp này, bị cáo phải bồi thường khoản tiền thuê nhà bị thất thu cho chủ sở hữu nhà.

1.4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Ví dụ trong vụ án hủy hoại tài sản (đốt nhà) do nhà bị kẻ phạm tội đốt cháy, chủ nhà phải dỡ một phần nhà (01 gian) của gia đình mình để đám cháy không cháy lan sang cả dãy nhà của các chủ nhà khác.

Như vậy khi giải quyết bồi thường thiệt hại về tài sản phải xem xét, giải quyết một trong số những dạng thiệt hại  đã được đề cập nêu trên.

  1. Kỹ năng giải quyết bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

Điều 609 Bộ luật dân sự quy định:

 “1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

  1. a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
  2. b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
  3. c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
  4. Người xâm phạm sức khỏe người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.

 Căn cứ vào quy định của Điều luật nói trên, để giải quyết đúng nội dung bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm thì cần xác định đúng thiệt hại đã xảy ra, cụ thể là:

Một làChi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại gồm:

– Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế;

– Tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sỹ;

– Tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ;

– Các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

   Hai làThu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.

Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị, do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

  1. a)Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

– Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khỏe nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

– Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề. Nếu chưa đủ 6 tháng thì lấy thu nhập bình quân của tất cả các tháng trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

– Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

– Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường về thu nhập thực tế bị mất.

  1. b)Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sútcủa người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm (a) nêu trên. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 5.000.000 đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất là 05 triệu đồng.

Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 6.000.000 đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 3.000.000 đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 3.000.000 đồng.

Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 5.000.000 đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

Ba làChi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

  1. a)Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
  2. b)Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trịđược xác định như sau:

– Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

– Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

– Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

– Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

Bốn làTrường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

  1. a)Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
  2. b)Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hạiđược tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

Năm làKhoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

  1. a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.
  2. b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…
  3. c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
  4. 3. Kỹ năng giải quyết bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

   Điều 610 Bộ luật dân sự quy định:

  1.   Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
  2. a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
  3. b) chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  4. c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ phải cấp dưỡng;
  5. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồithường thiệt hại theo khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.

 Để giải quyết đúng nội dung bồi thường thiệt hại về tính mạng thì cũng cần xác định rõ thiệt hại đã xảy ra, cụ thể gồm:

   3.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại bao gồm:

3.1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm:

– Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế;

– Tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sỹ;

– Tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ;

– Các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

   3.1.2. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

  1. a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm:

– Chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại;

– Chi phí hợp lý hàng tháng cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

  1. b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hạiđược tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

3.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…

   3.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết

  1. a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.
  2. b) Thời điểm cấp dưỡng: được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.
  3. c) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng:

– Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

   – Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

   – Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

   – Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

   – Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

   – Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

   – Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

   – Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

   – Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

   3.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm

  1. a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.
  2. b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm anêu trên, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.
  3. c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…
  4. d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.
  5. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm (Điều 612 BLDS)
  6. a) Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động, thì người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bồi thường được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.4 mục 1 Phần IINghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,cho đến khi chết (chi phí nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại).
  7. b) Đối với việc cấp dưỡngcho các đối tượng được hưởng tiền cấp dưỡngchấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 61 Luật hôn nhân và gia đình:

Điều 61: Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

  1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động;
  2. Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình;
  3. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
  4. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng;
  5. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
  6. Các bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác;
  7. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
  8. 4.Kỹ năng giải quyết bồi thườngthiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

Điều 611 Bộ luật dân sự quy định:

  1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm:
  2. a)Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
  3. b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
  4. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

 Hành vi gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể xâm hại đến cá nhân có thể xâm hại đến tổ chức.

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì:

  1. Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm:
  2. a) Chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại;
  3. b) Chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng;
  4. c) Chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
  5. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
  6. a) Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm có thu nhập thực tế, nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm phạm phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục thiệt hại nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
  7. b) Việc xác định thu nhập thực tế của người bị xâm phạm và việc xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị xâm phạm được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này(Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm).
  8. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
  9. a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm.
  10. b) Trong mọi trường hợp khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị xâm hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm phạm (bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay báo hình…) hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền thông tin xúc phạm…
  11. c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

III. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA

Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra được quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự:

  1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

 Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

  1. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
  3. a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
  4. b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  5. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

 Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại”.

Để giải quyết chính xác, đúng pháp luật về thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, cần xác định đúng thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ; trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc trách nhiệm của người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây thiệt hại.

  1. Kỹ năngxác định nguồn nguy hiểm cao độ

Theo liệt kê tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự thì nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm:

– Phương tiện giao thông vận tải cơ giới;

– Hệ thống tải điện;

– Nhà máy công nghiệp đang hoạt động;

– Vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ;

– Thú dữ;

– Các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Nghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn xác định nguồn nguy hiểm cao độ như sau:

  1. a) Khi có phương tiện giao thông, công trình, vật, chất hoặc loại thú nào đó gây ra thiệt hại để có căn cứ áp dụng các khoản 2, 3 và 4 Điều 623 Bộ luật dân sựxác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
  2. b) Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó.

Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ vào Luật giao thông đường bộ. Theo quy định tại điểm 13 Điều 3 Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.

  1. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
  2. a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.

Ví dụ: Bị cáo là chủ sở hữu chiếc xe ô tô 5 chỗ ngồi, hàng ngày bị cáo sử dụng xe ô tô đó đi chở khách thuê, trên đường đi chở khách, do bất cẩn đã gây tai nạn chết người đi đường. Trong trường hợp này, bị cáo là chủ sở hữu chiếc xe, trực tiếp sử dụng xe và cũng là người gây tai nạn chết người nên bị cáo phải bồi thường cho đại diện người bị hại.

  1. b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.

Ví dụ: Các thoả thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:

– Thoả thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;

– Thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;

– Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.

Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: Chủ sở hữu (A) biết (B) là người không có bằng lái xe ô tô vận tải nhưng vẫn giao B điều khiển xe ô tô đi chở hàng, trên đường đi, B đã gây tai nạn chết người. Trong trường hợp này A là người phải chịu trách nhiệm bồi thường  thiệt hại do B gây ra.

  1. c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

– Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu và người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.

– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.

  1. d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).

Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô của mình cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:

– Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng do đó, A phải bồi thường thiệt hại.

– Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.

Bồi thường dân sự trong vụ án hình sự là chế định pháp lý quan trọng, là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người bị thiệt hại, đó cũng thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước ta là luôn luôn coi trọng và ra sức bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức trong xã hội, góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển.

BÀI 8:

GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

 

  1. Lịch sử phát triển và những quy định hiện hành về thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, qua nghiên cứu lịch sử lập pháp của Nhà nước ta, khẳng định rằng thủ tục này không phải là vấn đề mới, mà đã được quy định ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 33c/SL ngày 13/9/1945, thành lập Tòa án quân sự ở các địa phận khác nhau trong phạm vi cả nước nhằm bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng. Thủ tục rút gọn được quy định tại Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về thẩm quyền của các Tòa án quân sự và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. Cụ thể Sắc lệnh 51 đã quy định, Tòa án sơ cấp có quyền chung thẩm một số vụ án hình sự có tính chất vi cảnh như: “Những án phạt bạc từ 0,5đ đến 9đ”; “Những án xử bồi thường từ 150đ trở xuống do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu, hay chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra phiên xử”. Sắc lệnh 51 còn quy định cho phép giản lược một số thủ tục đối với những vụ án tiểu hình nhất định thuộc thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp trong giai đoạn điều tra, truy tố như: “Ông biện lý có thể cho trát gọi thẳng bị can ra xét xử tại một phiên tòa tiểu hình gần nhất”; trong trường hợp là một vụ tiểu hình phạm pháp quả tang thì “Ông biện lý phải hỏi cung ngay bị can và có thể hạ trát tống giam rồi đưa bị can ra xét xử tại một phiên tòa gần nhất”…  Tại Điều 23, Sắc lệnh 51 – SL quy định “Nếu việc phạm pháp quả tang có thể xử phạt từ 05 năm tù trở xuống thì viện công tố có thể đưa ngay vụ án ra phiên tòa, không cần có cáo trạng…”. Tiếp đến trong giai đoạn từ năm 1954 đến khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã ban hành nhiều văn bản dưới luật, quy định về thủ tục rút gọn như: Thông tư số 139 ngày 28/5/1974 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử các vụ án phạm pháp quả tang. Thông tư này quy định: Đối với các vụ án phạm tội quả tang không thuộc loại trọng án có đủ chứng cứ, bị can nhận tội, thì cơ quan Công an lập biên bản đưa sang Viện kiểm sát nhân dân để quyết định chuyển thẳng sang Tòa án để xét xử. Thông tư số 10 – TATC ngày 08/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử  một số vụ án hình sự ít quan trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Tiếp đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 01-TT ngày 28/2/1975 hướng dẫn về nội dung hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút ngắn đối với các vụ án ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng.

Như vậy: Thủ tục rút gọn đã được pháp luật Tố tụng hình sự nước ta quy định và áp dụng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Tuy nhiên, trước đây những thủ tục này chỉ là thủ tục rút ngắn về thời gian tiến hành tố tụng mà chưa đơn giản hóa các thủ tục tố tụng. Nghị quyết số 08 – NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng”. Thể chế hoá Nghị quyết của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003  đã xây dựng một chương mới (chương XXXIV) gồm 7 điều, từ Điều 318 đến Điều 324 quy định về thủ tục rút gọn, đánh dấu bước phát triển mới của tố tụng hình sự Việt Nam.

1.1. Khái niệm về thủ tục rút gọn

Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, được rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định.

Từ khái niệm trên có thể hiểu: Hoạt động tố tụng được rút gọn cũng chỉ có thể là các hoạt động tố tụng ở ba giai đoạn này, chỉ giản lược được một số thủ tục mang tính hình thức tố tụng: Quyết định đề nghị truy tố thay cho bản kết luận điều tra, quyết định truy tố thay cho bản cáo trạng. Thủ tục phiên tòa về cơ bản là theo trình tự chung nhưng vì không có cáo trạng nên trước khi vào phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát thay vì đọc bản cáo trạng sẽ đọc quyết định truy tố bị can ngắn gọn.

Quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Tố tụng hình sự. So với các quy định về thủ tục rút gọn trong các văn bản trước năm 1988, phạm vi này đã được thu hẹp, như tại thông tư số 16/TATC ngày 12/10/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về thủ tục rút gọn trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, song theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì thủ tục rút gọn lại chỉ được áp dụng giải quyết ở giai đoạn sơ thẩm, đối với giai đoạn phúc thẩm thì vẫn theo thủ tục chung. Hiện trên thế giới và khu vực, một số quốc gia có những quy định tương tự về việc mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn cả trong giai đoạn xét xử phúc thẩm như Hàn Quốc, Nhật Bản.

1.2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong  giải quyết các vụ án hình sự

Có thể khẳng định, thủ tục rút gọn có ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc trong tình hình hiện nay. Bởi lẽ, thủ tục này là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng; đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm kịp thời, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài và các vi phạm các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thời hạn hiện đang có xu hướng gia tăng; khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam và trại cải tạo, cũng như khắc phục được phần nào những khó khăn trong tổ chức tạm giữ, tạm giam và cải tạo, giáo dục. Việc giải quyết vụ án nhanh chóng sẽ tạo điều kiện để những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục kịp thời, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Thủ tục rút gọn còn tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết vụ án những vụ án đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, tập trung vào việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng, phức tạp hơn; đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian và chi phí cho những người tham gia tố tụng và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Thủ tục này cũng có ý nghĩa trong việc thực hiện nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự và đáp ứng yêu cầu của nhân dân về việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, xử lý kịp thời, nhanh chóng, chính xác các hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Qua đó nhanh chóng phát huy tác dụng giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân thông qua hoạt động xét xử, góp phần vào việc phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, mục đích và ý nghĩa của thủ tục rút gọn chỉ thực sự đạt được nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn không phải tiếp tục áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn, sau đó cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết thì sẽ không rút ngắn được về thời gian, không đơn giản được về thủ tục, thậm chí còn làm cho trình tự tố tụng kéo dài và phức tạp hơn nếu chỉ áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hạn chế những trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn.

   Thủ tục rút gọn, được quy định tại chương XXXIV bao gồm các quy định từ Điều 318 đến 324, quy định về phạm vi áp dụng, các điều kiện áp dụng, thời hạn tiến hành tố tụng và xét xử sơ thẩm hình sự theo trình tự rút gọn. Việc quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự là hết sức cần thiết và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, tiết kiệm được thời gian, chi phí tiền của cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như đã phân tích. Song thực tiễn áp dụng các quy định tiến bộ của thủ tục rút gọn hiện nay vẫn chưa được áp dụng triệt để và thường xuyên, nhiều địa phương thì thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự hầu như đã bị bỏ quên. Năm 2004, khi Bộ luật tố tụng hình sự được triến khai thi hành, thủ tục rút gọn đã được áp dụng như để thử nghiệm đối với một vài vụ án, sau đó cho đến nay, thủ tục này không được áp dụng mặc dù không ít vụ án có đủ điều kiện để áp dụng. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Theo chúng tôi, sở dĩ các cơ quan tiến hành tố tụng không mặn mà trong việc áp dụng thủ tục rút gọn một phần là do các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục này còn chưa hợp lý, mang tính chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là về mối quan hệ giữa các quy định của thủ tục rút gọn và các thủ tục tố tụng chung bắt buộc phải thực hiện, một phần là do lãnh đạo các cơ quan tư pháp ở địa phương thiếu quan tâm, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện.

  1. Nội dung của áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết các vụ án hình sự

2.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn

Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 318 BLTTHS thì:

“Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và  xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của chương này”.

Như vậy, thủ tục rút gọn chỉ áp dụng giới hạn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và chỉ áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm còn không áp dụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Nếu sau khi xét xử sơ thẩm, có kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì vẫn phải áp dụng theo thủ tục chung mà theo quy định tại Điều 242 về thời hạn xét xử phúc thẩm thì “Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày…” . Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án thì Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Trong những trường hợp này, những điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn không còn đầy đủ, tính chất của vụ án đã trở nên phức tạp, vì vậy cần áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Để hạn chế những trường hợp phải chuyển sang áp dụng thủ tục chung để giải quyết đối với những vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn thực chất là cần hạn chế những trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, về thời hạn theo thủ tục rút gọn thì cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là 30 ngày, trong khi giai đoạn phúc thẩm là 60 ngày, đây là điều không hợp lý, làm mất đi ý nghĩa của thủ tục rút gọn. Theo chúng tôi sẽ hợp lý và phù hợp hơn khi chúng ta cần có thêm quy định về thủ tục rút gọn đối với cả xét xử phúc thẩm trong chương XXXIV Bộ luật tố tụng hình sự.

   2.2. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

   Theo quy định tại Điều 319 Bộ luật tố tụng hình sự thì thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:

   “1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang;

  1.    Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
  2.    Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
  3.    Người phạm tội có căn cước lai lịch rõ ràng.”

   Như vậy, thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi thỏa mãn bốn điều kiện nêu trên mà ở đó:

   Thứ nhất: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, theo quy định tại Điều 82 BLTTHS thì phạm tội quả tang là trường hợp người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Khoản 1 điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định: Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kì người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và gửi ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Như vậy, điều Luật quy định ba trường hợp phạm tội quả tang đó là:

– Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện: Ở trường hợp này được hiểu là người đang thực hiện những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể theo BLHS nhưng chưa hoàn thành tội phạm đã bị phát hiện. Đang thực hiện tội phạm có thể là: Đang thực hiện những hành vi làm cơ sở tiền đề liền trước hành vi phạm tội, những hành vi này không phải là hành vi chuẩn bị phạm tội mà đây là những hành vi rất gần, không thể tách ra được với hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm nên được coi là hành vi thực hiện tội phạm. Ví dụ: Hành vi giơ dao định gây thương tích cho người khác, nhặt một vật nặng chuẩn bị ném, hoặc người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan của tội phạm nhưng chưa thực hiện được hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, hoặc mới thực hiện được một trong số những hành vi quy định trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: Đang có hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác với mục đích xúc phạm nhân phẩm, danh dự của họ…

 – Người thực hiện hành vi phạm tội ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Trường hợp này là các hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm đã được thực hiện hết, các dấu hiệu pháp lý của tội phạm đã thỏa mãn đầy đủ, tội phạm cũng vừa được hoàn thành nhưng người thực hiện hành vi chưa kịp xóa dấu vết của tội phạm hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội thì bị phát hiện và bắt giữ. Trong trường hợp có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại cũng là phạm tội quả tang.

– Người thực hiện hành vi phạm tội đang bị đuổi bắt. Trường hợp này, người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trường hợp này khác với bắt trong trường hợp khẩn cấp ở chỗ là việc thực hiện tội phạm, chạy trốn và bị đuổi bắt có sự liên tục, không bị gián đoạn về thời gian và về diễn biến sự việc. Địa điểm bắt không phải là hiện trường vụ án. Đặc điểm của vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang là hành vi phạm tội đã cụ thể, rõ ràng, chứng cứ, tang vật của vụ án được thu giữ đầy đủ, nhân chứng, người bị hại được xác định. Do khi đó, chứng cứ phạm tội đã đầy đủ nên người phạm tội buộc phải nhận tội ngay, tội phạm nhanh chóng được xác định. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 84 BLTTHS, việc bắt quả tang phải được lập thành văn bản. Sau khi bị bắt hoặc nhận người phạm tội quả tang, “cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24h phải đưa ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt” (Khoản 1 Điều 83 BLTTHS). Điều kiện “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang” là điều kiện đầu tiên rất quan trọng để xác định vụ án có được đưa ra xét xử hay không theo thủ tục tố tụng hình sự rút gọn hay không. Điều kiện này có ý nghĩa quan trọng để quyết định vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn vì đặc điểm của phạm tội quả tang sẽ đảm bảo cho thời gian tố tụng sau này được nhanh chóng, mặt khác yếu tố này có ý nghĩa để xác định cho điều kiện tiếp theo “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”.

Thứ hai: Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng

Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng là vụ án không có các tình tiết phải mất thời gian điều tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo… (Thông tư số 10/TATC năm 1974). Có thể hiểu phạm tội đơn giản là những vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp, dễ xác định, vụ án ít bị cáo, các chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ từ đầu, trong đó:

 – Sự việc phạm tội đơn giản: Căn cứ vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, có thể hiểu điều kiện này như sau: Sự việc phạm tội đơn giản là những vụ án không có những tình tiết phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh theo quy định tại Điều 63 BLTTHS. Việc xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm được thực hiện khá dễ dàng, nhanh chóng, tội phạm đã được thực hiện không có đồng phạm, cụ thể:

+ Hành vi phạm tội thường do một người thực hiện, trong trường hợp có đồng phạm thì số đồng phạm cũng không nhiều người và sự câu kết giữa những người này không chặt chẽ chỉ là mang tính đồng phạm giản đơn. Tội phạm được thực hiện tại một địa điểm nhất định và không có liên quan đến các địa điểm khác.

+ Mục đích của tội phạm thường là lợi ích vật chất, động cơ phạm tội mang tính vụ lợi, nhất thời nên dễ dàng xác định được.

 + Sự việc phạm tội không liên quan đến những vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội, tôn giáo, phong tục tập quán, hoặc những vấn đề khác có tính chất phức tạp. Việc giải quyết vụ án cũng không đòi hỏi những hoạt động điều tra phức tạp.

– Sự việc phạm tội có chứng cứ rõ ràng: Chứng cứ rõ ràng là chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ ngay từ đầu, thông qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại, người trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội, các tang vật thu ở hiện trường. Chứng cứ và quá trình thu thập, bảo quản chứng cứ đều hợp pháp, có độ tin cậy cao. Chứng cứ phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định. Các chứng cứ có giá trị chứng minh trực tiếp, khách quan và hợp pháp. Do người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang khi đang thực hiện tội phạm nên chứng cứ ở đây chủ yếu là lời khai của người trực tiếp chứng kiến và người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt giữ, lời khai của người bị hại, biên bản bắt người phạm tội quả tang có giá trị chứng minh cao và không phải mất nhiều thời gian điều tra, xác minh.

Đây chính là điều kiện thể hiện về tính chất của hành vi phạm tội cụ thể, là dấu hiệu thể hiện rõ bản chất của vụ việc có thuộc loại tội phạm được đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn hay không, đồng thời cũng là một trong những điều kiện cần thiết để có thể giải quyết vụ án nhanh chóng, thuận lợi và chính xác theo yêu cầu của thủ tục rút gọn. Bởi lẽ, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tính chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng của vụ án phải luôn được bảo đảm. Nếu thủ tục rút gọn đã được áp dụng mà sau đó phát hiện vụ án có những tình tiết phức tạp phải điều tra bổ sung, cần thời gian xác minh thêm thì thủ tục rút gọn bị hủy bỏ, vụ án phải chuyển về thủ tục thông thường để giải quyết.

   Thứ ba: Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng: Đó là loại tội phạm tính nguy hiểm cho xã hội không lớn mà theo quy định tại Điều 8 BLHS thì “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy  là đến ba năm tù…”

Về mặt lý luận và thực tiễn, thì việc đặt ra điều kiện về loại tội phạm để áp dụng thủ tục rút gọn là điều cần thiết. Điều này một mặt sẽ khoanh vùng rõ ràng các loại tội phạm có thể được áp dụng thủ tục rút gọn giúp cho cơ quan, người tiến hành tố tụng có căn cứ nhận định ngay được loại án cần tiến hành theo thủ tục nào, mặt khác cũng tránh được khả năng tùy tiện của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS năm 2009, để xác định tội phạm ít nghiêm trọng phải dựa trên hai dấu hiệu: Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý. Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội. Dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý là tính chịu hình phạt. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù. Do hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội và hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng có thể phải gánh chịu là không lớn nên việc xử lý có thể nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp việc xử lý có sai sót thì hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng so với trường hợp thực hiên tội phạm khác và việc khắc phục hậu quả cũng dễ dàng hơn.

   Thứ tư: Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng

Vấn đề căn cước, lai lịch của bị can, bị cáo là một trong những vấn đề cần chứng minh của vụ án hình sự theo quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003, vấn đề này có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết vụ án: Lý lịch của bị can, bị cáo cũng chiếm một vai trò trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và giải quyết theo thủ tục rút gọn nói riêng, vì vấn đề này liên quan đến năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, liên quan đến việc quyết định hình phạt. Căn cước lai lịch của người phạm tội đã rõ ràng thì thời gian điều tra, xác minh có thể được rút ngắn và từ đó mới bảo đảm thời gian hoạt động tố tụng. Đặc điểm về căn cước, lai lịch của người phạm tội được hiểu một cách chung nhất là đặc điểm về nhân thân của người phạm tội. Nhân thân của người phạm tội bao gồm các đặc điểm về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, quá trình hoạt động chính trị, xã hội, tiền án tiền sự. Khi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự, việc xác định căn cước, lai lịch của bị can rõ ràng hay không có thể dựa vào lời khai ban đầu của bị can về lý lịch của họ. Đối với vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn thì không những lý lịch của bị can, bị cáo phải rõ ràng, có giấy tờ chứng minh hợp pháp, những thông tin về vấn đề này cụ thể, độ tin cậy cao mà còn đòi hỏi việc xác minh căn cước, lai lịch của người phạm tội dễ dàng, nhanh chóng, không ảnh hưởng tới thời hạn áp dụng. Căn cước, lai lịch rõ ràng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể làm rõ được các yếu tố về nhân thân, gia đình, mối quan hệ xã hội… của người phạm tội một cách nhanh nhất, tạo điều kiện rút ngắn thời gian trong hoạt động tố tụng.

Bốn điều kiện trên đây một mặt độc lập với nhau, mặt khác lại có mối quan hệ bổ trợ nhau. Vì thế khi xem xét áp dụng thủ tục rút gọn cần phân tích đánh giá từng điều kiện trong mối liên hệ tổng thể với các điều kiện khác và chỉ quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi cả 4 tiêu chí trên đều đảm bảo. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn nếu 1 trong các điều kiện này mất đi thì vụ án phải chuyển về thủ tục thông thường để giải quyết.

2.3. Về thời hạn hoạt động tố tụng trong việc áp dụng thủ tục rút gọn

– Thời hạn trong tố tụng hình sự được hiểu là khoảng thời gian tối đa mà BLTTHS cho phép tiến hành tố tụng đối với vụ án. Theo quy định tại các Điều 321, 323, 324 thì thời hạn hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng kể từ khi khởi tố vụ án tới khi xét xử là 30 ngày. Trong đó, thời hạn điều tra là 12 ngày, thời hạn truy tố là 4 ngày, thời hạn xét xử là 14 ngày.

2.3.1. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn

Theo quy định tại Điều 328 thì “1. Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.

  1. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
  2. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại”.

Theo quy định tại Điều 320 của BLTTHS thì, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn chứ không có quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Việc có áp dụng thủ tục rút gọn hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào Viện kiểm sát.

Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện Kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.

2.3.2. Thủ tục điều tra

Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự thì “1. Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.

  1. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát”.

   – Thủ tục điều tra được tiến hành như sau: Lập bản phạm pháp quả tang; khởi tố vụ án, bị can; tiến hành xác minh căn cước, lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự (nếu có). Ra văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Viện Kiểm sát gửi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn cho Cơ quan điều tra hoặc bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong 24 giờ, kể từ ngày ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Trong trường hợp cần thiết thì tiến hành thêm một số hoạt động điều tra nhằm thu thập và củng cố chứng cứ như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đối chất, trưng cầu giám định.v.v.. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố ngắn gọn đề nghị Viện Kiểm sát truy tố bị can về tội danh cũng như  theo các điều, khoản của Bộ luật Hình sự.

   2.3.3. Tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố

   Tại Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định:

 “1. Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.

  1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
  2. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày”.

– Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn:

Thứ nhất, về biện pháp tạm giữ: Thủ tục rút gọn được áp dụng đối với các vụ án phạm tội quả tang nên trong thực tế tạm giữ sẽ là biện pháp được áp dụng phổ biến đối với các vụ án. Các quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ trong thủ tục rút gọn cũng được tiến hành theo thủ tục chung. Thời hạn tạm giữ tối đa không quá 03 ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt; không được gia hạn tạm giữ.

Thứ hai, về tạm giam: Trong việc áp dụng thủ tục rút gọn, biện pháp tạm giam cũng phải tuân thủ các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền như trường hợp tạm giam thông thường. Về nguyên tắc, thời hạn tạm giam không được vượt quá thời hạn tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn là 30 ngày; trong đó điều tra 12 ngày, truy tố 04 ngày; xét xử 14 ngày. Do đó, thời hạn tạm giam tối đa là 30 ngày.

2.3.4. Quyết định việc truy tố

Tại Điều 323 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định:

“1. Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:

  1. a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố;
  2. b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
  3. c) Tạm đình chỉ vụ án;
  4. d) Đình chỉ vụ án.
  5. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung”.

– Thủ tục trong giai đoạn truy tố: Trong thời hạn 04 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước toà bằng quyết định truy tố (không cần có bản cáo trạng); trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì vụ án tiến hành tố tụng theo thủ tục chung.

2.3.5. Xét xử

Tại Điều 324 Bộ luật hình sự có quy định:

“1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây:

  1. a) Đưa vụ án ra xét xử;
  2. b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
  3. c) Tạm đình chỉ vụ án;
  4. d) Đình chỉ vụ án.
  5. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.
  6. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
  7. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày.
  8. Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung”.

– Thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Trong thời gian 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ toạ phiên tòa phải ra một trong các quyết định: Hoặc đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung. Hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung và tạm đình chỉ vụ án. Trường hợp này Tòa án sẽ chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung; hay đình chỉ vụ án khi có căn cứ đình chỉ điều tra.

Thực tế xét xử cho thấy, Thủ tục rút gọn quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành là những quy định hết sức tiến bộ và có ý nghĩa như đã phân tích ở trên. Song hiện nay, thủ tục này rất ít khi được áp dụng là do các quy định về thủ tục rút gọn vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự. Chính vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường ngại khi áp dụng thủ tục rút gọn, để các học viên nắm bắt được những vướng mắc, bất cập của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, trong chuyên đề này, tôi sẽ nêu những vướng mắc, bất cập của các quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, để các học viên nắm bắt được và có hướng khắc phục, không bị lúng túng khi giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn. Những vướng mắc, bất cập từ chính các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn thể hiện như sau:

  1. Một số vướng mắc cần lưu ý khi áp dụng thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự khi giải quyết các vụ án hình sự

Như đã phân tích thì, thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng hình sự rút ngắn, trong đó có rút ngắn về thời hạn thực hiện các thủ tục tố tụng, giảm bớt một số thủ tục không cần thiết nhưng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Thủ tục rút gọn chỉ có thể được áp dụng đối với những vụ án có hành vi phạm tội đơn giản, người phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng.

Bộ luật TTHS năm 1988 không quy định về thủ tục rút gọn, tuy nhiên, trong quá trình cải cách tư pháp, chế định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự lại được đặt ra. Thủ tục rút gọn được Bộ luật TTHS năm 2003 quy định tại chương XXXIV gồm 7 điều, trong đó xác định rõ về phạm vi, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục diều tra, truy tố, xét xử và việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố theo thủ tục rút gọn.

Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai thực hiện thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự theo quy định hiện hành cho thấy còn có một số bất cập trong các quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật TTHS hiện hành như sau:

3.1. Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn

Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn được quy định tại Điều 319, Điều 320 BLTTHS là chỉ áp dụng đối với việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, không mở rộng sang các giai đoạn xét xử phúc thẩm hay xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu vụ án bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì sẽ được giải quyết theo thủ tục chung. Về thời hạn theo thủ tục rút gọn thì cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là 30 ngày, trong khi giai đoạn phúc thẩm là 60 ngày. Đây là điều không hợp lý, làm mất đi ý nghĩa của thủ tục rút gọn. Theo chúng tôi sẽ hợp lý và phù hợp hơn khi chúng ta cần có thêm quy định về thủ tục rút gọn đối với cả xét xử phúc thẩm trong chương XXXIV Bộ luật tố tụng hình sự, mà theo đó các vụ án được cấp sơ thẩm xét xử theo thủ tục rút gọn có kháng cáo thì cấp phúc thẩm cũng cần phải xét xử với thời gian sớm nhất chứ không phải theo thủ tục chung, quy định như hiện nay.

3.2. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 319 BLTTHS

 Những quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn như đã phân tích ở trên, theo chúng tôi là chưa đầy đủ, còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng triệt để thủ tục tiến bộ này trong hoạt động tố tụng hình sự, dẫn đến nhiều địa phương bỏ quên không áp dụng thủ tục này trong hoạt động tố tụng hình sự. Những vướng mắc đó thể hiện như sau:

   Như trên đã phân tích, chỉ các vụ án hình sự thỏa mãn bốn điều kiện đã nêu thì mới được áp dụng thủ tục rút gọn, song điều kiện thứ nhất quy định bắt buộc người phạm tội bị bắt quả tang là chưa hợp lý, hạn chế tới việc áp dụng thủ tục rút gọn trong thực tiễn hiện nay bởi lẽ:

   Có rất nhiều vụ án tuy không phải thuộc trường hợp phạm tội quả tang, song sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, căn cước người phạm tội rõ ràng, song lại không được áp dụng thủ tục rút gọn vì không phải là trường hợp phạm tội quả tang.

Ví dụ: A trộm cắp của B một chiếc xe máy, hai hôm sau trên đường A đi tiêu thụ thì bị B phát hiện báo Công an bắt giữ A, A thừa nhận hành vi trộm cắp xe máy của B, tang vật được thu hồi trả lại ngay cho B.

   Hoặc có những trường hợp người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của mình mà hành vi phạm tội đó cũng rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm được thực hiện cũng là tội phạm ít nghiêm trọng, lai lịch, căn cước rõ ràng, nhưng vì không phải là trường hợp phạm tội quả tang nên cũng không được áp dụng thủ tục rút gọn.

Ví dụ: Trước đó 6 tháng, A tới nhà B trộm cắp của B 01 điện thoại di động trị giá 7 triệu đồng mang về giấu ở nhà với mục đích sau này sẽ đem ra sử dụng, sau khi mất điện thoại, B đã có đơn trình báo ra cơ quan Công an. Trong lúc cơ quan Công an chưa xác định được ai là người lấy trộm điện thoại của B thì A đã tới Công an tự thú hành vi phạm tội của mình đồng thời mang nộp chiếc điện thoại mà mình đã trộm cắp cho cơ quan Công an…

   Ngoài ra, qua thực tiễn xét xử chúng tôi thấy, có rất nhiều vụ án phạm tội nghiêm trọng, hoàn toàn thỏa mãn các điều kiện 1, 2, 4 quy định tại Điều 319, song không thể áp dụng được thủ tục rút gọn vì không thỏa mãn với điều kiện thứ ba là “Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng”. Như vậy, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 319 BLTTHS hiện hành chỉ được áp dụng trong trường hợp phạm tội quả tang, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, là không phù hợp với thực tiễn, bỏ sót rất nhiều vụ án có thể áp dụng được thủ tục rút gọn, nhưng lại không được áp dụng, làm mất nhiều thời gian, không hạn chế được lượng án tồn đọng, tốn kém về chi phí vật chất, gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, đôi khi còn vi phạm cả về thời hạn tạm giữ, tạm giam, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

   Theo chúng tôi, để khắc phục tình trạng trên cần bỏ điều kiện thứ nhất quy định tại Điều 319 BLTTHS, chỉ cần những vụ án mà sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, người phạm tội có căn cước lai lịch rõ ràng thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể xem xét để quyết định có hay không việc áp dụng thủ tục rút gọn, chứ không nên quy định đóng khung như hiện nay. Có như vậy, thì những quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự mới được áp dụng rộng rãi hơn, đúng với ý nghĩa của thủ tục rút gọn là đơn giản hóa quá trình tố tụng, rút ngắn thời hạn tiến hành tố tụng nhằm giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết nhanh chóng vụ án.

3.3. Về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn theo Điều 320 BLHS

   Khoản 1 Điều 320 BLTTHS quy định: “Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn”. Như vậy có thể nói vụ án có điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chứ không phụ thuộc vào Toà án. Điều này không những không giản lược được thủ tục mà còn phức tạp thêm. Do vậy, theo chúng tôi cần quy định theo hướng để cơ quan điều tra có quyền ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, khi vụ án có đủ điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn. Mặt khác, BLTTHS lại quy định: Khi có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định thì Viện kiểm sát cũng không bắt buộc phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mà có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hoặc không ra quyết định. Quy định này dẫn đến tình trạng có nhiều vụ án đủ điều kiện để điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng vẫn được tiến hành theo thủ tục thông thường.

   3.4. Về thời hạn áp dụng thủ tục rút gọn khi giải quyết các vụ án hình sự

Theo chúng tôi quy định về thời hạn như vậy là không phù hợp và chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng ngại áp dụng thủ tục này vì sợ vi phạm về thời hạn. Nếu so sánh thời hạn hoạt động tố tụng hình sự của thủ tục rút gọn với thủ tục tố tụng hình sự thông thường thì thời hạn quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự theo thủ tục rút gọn là quá ít. Bởi lẽ, đối với vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thời hạn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là 5 tháng 15 ngày, trong khi đó thời hạn của thủ tục rút gọn chỉ là 30 ngày.

Với quy định về thời hạn như vậy, có rất nhiều vụ án trên thực tế mặc dù đã có quyết định áp dụng theo thủ tục rút gọn, nhưng sau đó lại phải hủy bỏ thủ tục rút gọn để áp dụng theo thủ tục tố tụng thông thường vì vi phạm thời hiệu. Những vướng mắc đó, thể hiện ngay trong quy định tại Điều 320 BLTTHS. Theo quy định tại khoản 1 Điều 320 thì chỉ cần có quyết định khởi tố vụ án và có đề nghị của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mà chưa cần có quyết định khởi tố bị can. Nhưng tại khoản 2 Điều 320 lại quy định “Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra, bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24h, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn”. Nếu quy định như vậy, thì thời hạn để Viện kiểm sát xem xét ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn là bao lâu? Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can và Viện kiểm sát phê chuẩn các quyết định tố tụng vào thời điểm nào? Giả thiết, việc khởi tố bị can được tiến hành sau khi  có quyết định của Viện kiểm sát về việc áp dụng thủ tục rút gọn, thì trong vòng 24h Cơ quan điều tra phải xác minh, ra quyết định khởi tố bị can, gửi cho Viện kiểm sát phê chuẩn, giao các quyết định tố tụng cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật, với khoảng thời gian như vậy liệu có đủ để Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động tố tụng hay không? Theo chúng tôi, quy định như vậy là chưa hợp lý vì luật cũng không quy định cụ thể Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát phải gửi cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ, nên dễ xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, đối với trường hợp người phạm tội không bị tạm giữ lại càng khó thực hiện hơn.

Một vấn đề nữa cũng gây khó khăn cho Cơ quan điều tra, đó là quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại quy định tại khoản 3 Điều 320, Theo quy định tại khoản 3 Điều 320 thì trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thì bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại gửi cho Viện kiểm sát, Viện kiểm sát phải giải quyết khiếu nại đó trong vòng ba ngày.

Như vậy, nếu theo đúng trình tự quy định tại Điều 320 BLTTHS thì thời gian từ khi khởi tố, ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, gửi cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ, tiếp nhận khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có) thì thời gian tối đa là 6 ngày. Vậy Cơ quan điều tra, chỉ còn có 4 ngày để tiến hành điều tra. Với thời gian như vậy liệu Cơ quan điều tra có bảo đảm được đầy đủ các quy định của pháp luật trong hoạt động điều tra để bảo đảm được việc điều tra đúng người, đúng tội đúng pháp luật hay không?

Một vấn đề bất cập nữa chúng tôi muốn nêu ra là: Trong toàn bộ các quy định tại chương XXXIV BLTTHS về thủ tục rút gọn không có điều luật nào đề cập đến vấn đề bào chữa, nếu trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu mời luật sư bào chữa thì chúng ta giải quyết thế nào? Thời hạn là bao nhiêu? Ví dụ: Trong giai đoạn xét xử tại Điều 324 quy định:

 “1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây:

a/ Đưa vụ án ra xét xử;

b/ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c/ Tạm đình chỉ vụ án;

d/ Đình chỉ vụ án.

  1. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.”

Quy định như vậy, nếu sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tới ngày thứ sáu hoặc tại phiên tòa bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu mời luật sư thì giải quyết thế nào? Thời hạn là bao nhiêu, vì theo quy định thì khi áp dụng thủ tục rút gọn không được gia hạn. Nếu Tòa án không chấp nhận yêu cầu mời luật sư vì cho rằng vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì sẽ vi phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi lẽ, tại Điều 11 Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị cam, bị cáo đã quy định:

“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.

 Nếu chấp nhận thì vi phạm về thời hạn. Theo quy định tại Điều 11 như đã nêu, thì quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải được bảo đảm và họ có quyền yêu cầu có người bào chữa ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, song các quy định về thủ tục rút gọn quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự lại không có quy định, nên khi gặp trường hợp người phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu được mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không biết giải quyết như thế nào. Đây cũng chính là một trong những vướng mắc và là nguyên nhân dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ngại áp dụng thủ tục rút gọn hoặc có áp dụng rồi lại phải ra quyết định hủy bỏ.

Chính vì vậy, việc áp dụng thủ tục rút gọn, ngoài việc rút ngắn thời hạn tiến hành tố tụng nhằm giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết nhanh chóng vụ án thì cũng cần có những quy định sửa đổi bảo đảm về thời gian phù hợp để bị can, bị cáo bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình nhất là bảo đảm quyền bào chữa quy định tại Điều 11 BLTTHS. Quy định về thời hạn như hiện nay, theo chúng tôi là quá ngắn dẫn đến có sự không tin tưởng của bị can, bị cáo vào năng lực, trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng hay các quyền lợi của họ sẽ không được bảo đảm như khi áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự thông thường.

  1. Một số kiến nghị

Từ những vướng mắc, bất cập của các quy định về áp dụng thủ tục rút gọn như đã phân tích ở trên, theo chúng tôi để thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, cần có hướng nghiên cứu, sửa đổi về phạm vi, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn cũng như về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sao cho phù hợp hơn, để thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự được áp dụng nhiều hơn, góp phần hạn chế lượng án tồn đọng như hiên nay, tiết kiệm được về thời gian và các chi phí tố tụng, bảo đảm được quyền lợi ích của công dân nói chung và bị can, bị cáo nói riêng cũng như bảo đảm được quyền bào chữa của bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở nghiên cứu cũng như thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn hiện nay, chúng tôi mạnh dạn nêu ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung vào các quy định về áp dụng thủ tục rút gọn hiện hành như sau:

Điều 318. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn (bổ sung)

Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, Phúc thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.

Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn (chỉ cần quy định ba điều kiện có sự bổ sung thêm)

Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
  2. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng,nghiêm trọng;
  3. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.

Điều 320. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn (bổ sung)

1…. (giữ nguyên)

  1. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24h, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.Cơ quan điều tra phải giải thích cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ biết rõ về thủ tục rút gọn cũng như quyền và nghĩa vụ của họ theo thủ tục rút gọn. Việc giải thích phải được thể hiện bằng văn bản.

3….(giữ nguyên)

Điều 321. Điều tra (bổ sung)

1.Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười tám ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

2…. (giữ nguyên).

Điều 322. Tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố (bổ sung).

1….(giữ ngyên)

2….(giữ nguyên)

  1. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không đượcquá 25 ngày.

Điều 323. Quyết định việc truy tố (bổ sung).

  1. Trong thời hạnbảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:

a/ Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố;

b/ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c/ Tạm đình chỉ vụ án;

d/ Đình chỉ vụ án.

2…. (giữ nguyên).

Điều 324. Xét xử (bổ sung)

1.Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:

a/ Đưa vụ án ra xét xử;

b/ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c/ Tạm đình chỉ vụ án;

d/ Đình chỉ vụ án.

  1. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong thời hạn10 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.

3….(giữ nguyên)

  1. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quáhai mươi ngày.

Điều 324 a. Xét xử phúc thẩm (bổ sung).

  1. Trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Việc xét xử phúc thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.
  2. Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung.

Trên đây là một số kiến nghị của chúng tôi, nhằm để thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, được áp dụng rộng rãi góp phần giải quyết nhanh chóng vụ án, tiết kiệm được kinh phí, lực lượng và thời gian trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử vô tư, khách quan. Đồng thời còn bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước pháp luật.

BÀI 9:

MIỄN, GIẢM HÌNH PHẠT TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ

           

Miễn, giảm hình phạt trong thi hành án hình sự là chế định pháp luật quan trọng được quy định tại chương VIII, X Bộ luật hình sự (Điều 57, 58, 59, 60, 76); Chương XXVIII Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 268, 269); Luật thi hành án (Điều 33, 34, 66, 77, 78; 79, 86, 95) và được hướng dẫn tại các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và gần đây là hướng dẫn liên ngành ở các Thông tư liên tịch sau:

Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 của Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân;

+ Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 16/8/2012 hướng dẫn về việc giảm, miễn thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại;

+ Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 14/8/2012 hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách của án treo.

+ Thông tư liên tích số 10/2010/TTLT ngày 25/5/2010 của Bộ tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự thì trong hệ thống hình phạt quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự, có 04 loại hình phạt chính có thể được giảm theo trình tự thông thường (do các cơ quan tiến hành tố tụng và cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan tiến hành) đó là hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân; 01 hình phạt có thể được giảm theo thủ tục đặc biệt đó là hình phạt tử hình thì chỉ có Chủ tịch nước có quyền ân giảm xuống hình phạt tù chung thân. Đối với hình phạt bổ sung thì cũng có 3/7 hình phạt có thể được giảm, đó là hình phạt cấm cư trú, quản chế, phạt tiền (khi không phải là hình phạt chính). Các hình phạt Cảnh cáo; trục xuất (hình phạt chính); cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính (hình phạt bổ sung) không được miễn, giảm.

Như vậy, miễn hoặc giảm hình phạt trong thi hành án hình sự bao gồm: miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; miễn, giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; miễn thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại; rút ngắn thời hạn thử thách của án treo; miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại.

  1. MIỄN THỜI HẠN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ
  2. Khái niệm

 Miễn chấp hành hình phạt tù: Là việc người bị kết án phạt tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt, đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt (đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng) mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét quyết định (Điều 57 Bộ luật hình sự; Điều 34 luật thi hành án hình sự).

  1. Đối tượng được miễn chấp hành hình phạt tù

Là người bị kết án phạt tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt, đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt (đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng).

  1. Điều kiện để được miễn chấp hành hình phạt tù:lập công, lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và họ không còn nguy hiểm cho xã hội.
  2. a)Lập công là trường hợp người chấp hành án có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, công tác, chiến đấu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận.
  3.  b) Lập công lớn là trường hợp người chấp hành án đã có hành động giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng trở lên của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận.
  4. c) Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp người chấp hành án đang bị những căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong.
  5. d) Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội là trường hợp người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào thi đua của địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án.
  6. Thẩm quyền đề nghị miễn và thẩm quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù

 – Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc đề nghị miễn chấp hành hình phạt tù đối với người có đủ điều kiện miễn.

  – Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu xét quyết định việc miễn chấp hành hình phạt.

  1. Thủ tục miễn chấp hành án phạt tù

Được hướng dẫn tại Điều 34 Luật thi hành án, cụ thể như sau:

5.1. Viện kiểm sát có thẩm quyền (Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu) nơi người chấp hành án phạt tù đang cư trú hoặc làm việc lập hồ sơ đề nghị TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu xét miễn chấp hành án phạt tù. Hồ sơ gồm có:

  1. a) Bản sao bản án có hiệu lực pháp luật;
  2. b) Văn bản đề nghị của Viện kiểm sát có thẩm quyền;
  3. c) Đơn xin miễn chấp hành án phạt tù của người chấp hành án;
  4. d) Bản tường trình của người bị kết án về việc lập công hoặc lập công lớn có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền đối với người bị kết án đã lập công, lập công lớn hoặc kết luận của Bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật của người bị kết án đối với người bị kết án mắc bệnh hiểm nghèo.

   5.2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Tòa án có thẩm quyền phải mở phiên họp xét miễn và thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp và VKS phải cử KSV tham gia phiên họp. Trường hợp hồ sơ cần phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.

   5.3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định miễn chấp hành án phạt tù, Tòa án đã ra quyết định miễn chấp hành án phạt tù có trách nhiệm gửi quyết định này cho người được miễn chấp hành án, VKS đề nghị, VKS cấp trên trực tiếp, cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, UBND cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội quản lý người đó, Sở tư pháp nơi có Tòa án ra quyết định.

   5.4. Ngay sau khi nhận được quyết định miễn chấp hành án phạt tù, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện phải làm thủ tục trả tự do cho người được miễn chấp hành án phạt tù và báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp trên.

Hội đồng xét quyết định miễn chấp hành án phạt tù gồm 03 thẩm phán và có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp đã đề nghị miễn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án.

Thẩm quyền của Hội đồng xét miễn chấp hành hình phạt tù: có thể chấp nhận có thể không chấp nhận đề nghị miễn hình phạt tù cho người bị kết án. Quyết định miễn hình phạt được thể hiện bằng văn bản, trường hợp không chấp nhận miễn theo đề nghị của viện kiểm sát thì phải ghi rõ lý do.

  1. GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ
  2. Những quy định chung về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

1.1. Đối tượng được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù: phạm nhân đang chấp hành án phạt tù trong các trại giam, trại tạm giam do Bộ Công an và trại giam, trại tạm giam do Bộ quốc phòng quản lý.

1.2. Nguyên tắc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù: Gồm các nguyên tắc sau đây:

  1. a) Tuân thủ quy định của pháp luật, bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, khách quan, công bằng và có tác dụng khuyến khích phạm nhân thi đua cải tạo tiến bộ.
  2. b) Phải căn cứ vào kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù, tính chất và mức độ, độ tuổi và các đặc điểm nhân thân khác của phạm nhân.

– Những phạm nhân phạm tội lần đầu, cải tạo tốt, lập công chuộc tội được xét, đề nghị và quyết định mức giảm cao hơn những phạm nhân khác.

– Những phạm nhân bị kết án tử hình được ân giảm xuống tù chung thân, phạm nhân có nhiều tiền án, nhân thân xấu, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm thì phải có nhiều thời gian thử thách hơn và phải xem xét rất chặt chẽ với mức giảm thấp hơn so với phạm nhân khác.

  1. c) Cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Giám thị trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù theo đúng danh sách và mức giảm đã được Hội đồng thẩm định của Cơ quan thi hành án Công an cấp tỉnh, cấp quân khu, Thủ trưởng Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng duyệt.

1.3. Thời điểm xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

1.3.1- Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện mỗi năm 03 (ba) đợt, vào các dịp: Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4), ngày Quốc khánh (2/9) và tết Nguyên đán. Đối với các Trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, thực hiện việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù vào dịp thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày quốc phòng toàn dân (22/12) thay cho dịp tết Nguyên đán.

1.3.2- Đối với những trường hợp đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù mà trong năm đó lại lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì việc đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù không phụ thuộc vào thời điểm quy định tại khoản 1 Điều này.

1.4. Về điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt được hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư đã viện dẫn trên (Thông tư 02/2013/TTLT), cụ thể như sau:

1.4.1- Phạm nhân có đủ các điều kiện sau đây thì được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:

  1. a) Đã chấp hành được ít nhất 1/3 thời hạn đối với hình phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc 12 năm đối với tù chung thân;
  2. b) Có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc chấp hành Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau:

– Phạm nhân bị phạt tù chung thân phải có ít nhất 04 năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất 05 năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên 20 năm đến 30 năm phải có ít nhất 03 năm 06 tháng liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên 15 năm đến 20 năm phải có ít nhất 03 năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ loại khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên 10 năm đến 15 năm phải có ít nhất 02 năm liên tục liền kề hoặc 08 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên 05 năm đến 10 năm phải có ít nhất 01 năm hoặc 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp từ loại khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù trên 03 năm đến 05 năm phải có ít nhất 06 tháng hoặc 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

– Phạm nhân bị phạt tù 03 năm trở xuống phải có ít nhất 01 quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên.

1.4.2- Phạm nhân được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt hoặc người chưa thành niên phạm tội so với quy định tại điểm b khoản 1 Điều này còn thiếu một năm đầu tiên xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên của thời gian liền kề thời điểm xét giảm (đối với phạm nhân bị phạt tù trên 15 năm trở lên), thiếu 01 kỳ 06 đầu tiên xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm), thiếu 01 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên 03 năm đến 05 năm) hoặc chưa được xếp loại chấp hành án phạt tù (đối với phạm nhân bị phạt tù từ 03 năm trở xuống) nhưng thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc ở trại giam được nhận xét là chấp hành nghiêm chỉnh nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ và có đủ các điều kiện khác thì vẫn có thể được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

1.4.3- Phạm nhân có đủ điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, phạm nhân thuộc trường hợp đặc biệt hoặc người chưa thành niên phạm tội có số kỳ được xếp loại bằng hoặc nhiều hơn so với quy định tại điểm b khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng không liên tục, vẫn có thể được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu có ít nhất 02 kỳ 06 tháng liên tục liền kề với thời điểm đề nghị xét giảm được xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù trên 10 năm) hoặc 02 quý liên tục được xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ 10 năm trở xuống).

1.4.4- Phạm nhân có tiền án phải có thời gian thử thách nhiều hơn và có số kỳ xếp loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những phạm nhân chưa có tiền án, ứng với mỗi tiền án là 01 kỳ 06 tháng xếp loại từ khá trở lên. Đối với phạm nhân bị phạt tù từ 03 năm trở xuống, ứng với mỗi tiền án là 01 quý xếp loại từ khá trở lên.

1.4.5- Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại từ khá trở lên mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn đúng đợt. Trường hợp không đủ điều kiện để được xét giảm đúng đợt thì được xem xét, đề nghị giảm thời hạn khi có đủ 04 quý xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên (trong đó phải có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm).

1.4.6- Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ bị xử lý kỷ luật, sau khi được Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện công nhận đã cải tạo tiến bộ và có đủ 04 quý liền kề (đối với phạm nhân bị kỷ luật khiển trách 02 lần trong kỳ xếp loại hoặc kỷ luật cảnh cáo) hoặc 05 quý liền kề (đối với phạm nhân bị giam tại buồng kỷ luật) được xếp loại chấp hành án phạt tù từ loại khá trở lên thì mới được tiếp tục xem xét, đề nghi giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

1.4.7- Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất 2/3 mức hình phạt chung hoặc 20 năm nếu là tù chung thân và phải có đủ điều kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.

1.4.8- Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc đang được áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc được bảo lưu kết quả chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau khi trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án. Khi những người này trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án, nếu có đủ điều kiện quy định ở các khoản nêu trên của Điều này và trong thời gian được tạm đình chỉ hoặc áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, được chính quyền địa phương nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú hoặc cơ sở y tế điều trị cho người được áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc xác nhận thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

1.5. Về mức giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

1.5.1- Phạm nhân bị phạt tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm.

1.5.2- Phạm nhân bị phạt tù từ 30 năm trở xuống, mỗi lần có thể được giảm từ 01 tháng đến 03 năm. Trường hợp được giảm 03 năm phải là những phạm nhân chấp hành nghiêm chỉnh Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ và lập công hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, học tập, cải tạo.

1.5.3- Mỗi năm một phạm nhân chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 01 lần, khoảng cách giữa hai lần xét giảm ít nhất là 01 năm. Trường hợp đã được giảm mà thời hạn tù còn lại không đủ 01 năm thì năm tiếp theo có thể đề nghị sớm hơn trước một đợt, nhưng vẫn phải bảo đảm mỗi năm chỉ được giảm 01 lần.

Trường hợp sau khi đã được giảm thời hạn mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm thêm nhưng không được quá 02 lần trong một năm.

Mỗi phạm nhân có thể được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành án được 1/2 mức hình phạt tù có thời hạn đã tuyên hoặc 20 năm tù đối với tù chung thân.

1.6. Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt

1.6.1- Phạm nhân đã chấp hành được ít nhất 1/4 mức hình phạt đã tuyên đối với án phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc 10 năm đối với tù chung thân và có đủ điều kiện về xếp loại chấp hành án phạt tù quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 6 Thông tư liên tịch này, có thể được xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Phạm nhân đã lập công. Mỗi lần lập công chỉ được xem xét, đề nghị giảm thời hạn 01 lần.
  2. b) Phạm nhân đã quá già yếu;
  3. c) Phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo.

1.6.2- Mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này là 04 năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là 2/5 mức hình phạt đã tuyên hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân.

1.6.3- Trong trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phạm nhân có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc mức giảm cao hơn so với quy định ở khoản 1, khoản 2 Điều này.

1.7. Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội

1.7.1- Phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội nếu đã chấp hành được ít nhất 1/4 mức hình phạt đã tuyên và có đủ điều kiện quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 6 Thông tư này thì có thể được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

1.7.2- Phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội đã lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm ngay mà không cần điều kiện đã chấp hành được ít nhất 1/4 mức hình phạt đã tuyên.

1.7.3- Mức giảm mỗi lần cao nhất đối với phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội là 04 năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án ít nhất là 2/5 mức hình phạt đã tuyên.

1.7.4- Phạm nhân là người chưa thành niên, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà sau khi được xét giảm, thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại không quá 01 năm thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại.

  1. Trình tự, thủ tục, hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

Về trình tự, thủ tục lập hồ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được quy định rất chặt chẽ, rất tỷ mỷ, cụ thể đảm bảo các cơ quan đề nghị, cơ quan xét duyệt đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân đều trên cơ sở quy định của pháp luật và không bỏ lọt phạm nhân nào có đủ điều kiện mà không được đề nghị giảm. Cụ thể như sau:

2.1. Về Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

2.1.1- Các Trại giam thuộc Bộ Công an thành lập Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do Giám thị làm Chủ tịch, Phó Giám thị phụ trách công tác giáo dục, hồ sơ làm Ủy viên thường trực, Đội trưởng Giáo dục và hồ sơ làm ủy viên thư ký và các ủy viên gồm: Các Phó Giám thị; các Trưởng phân trại; Đội trưởng các đội: Tham mưu, Cảnh sát quản giáo, trinh sát, Cảnh sát bảo vệ – cơ động, kế hoạch, hướng nghiệp, dạy nghề – xây dựng, Hậu cần, tài vụ, Y tế và bảo vệ môi trường.

Trại giam có từ 02 phân trại trở lên thì thành lập Tiểu ban xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của phân trại do Phó Giám thị phụ trách phân trại làm Trưởng tiểu ban, cán bộ giáo dục phân trại làm Ủy viên thư ký và các ủy viên khác gồm: Trưởng phân trại, tổ trưởng Cảnh sát quản giáo, cán bộ trinh sát, y tế và Trung đội trưởng Cảnh sát bảo vệ của phân trại.

2.1.2- Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh thành lập Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do Giám thị làm Chủ tịch, Phó giám thị phụ trách Phân trại quản lý phạm nhân làm ủy viên thường trực, Trưởng phân trại quản lý phạm nhân, Đội trưởng Đội Quản giáo, Trung đội trưởng Cảnh sát bảo vệ, cán bộ trinh sát, giáo dục, y tế của Phân trại quản lý phạm nhân làm Ủy viên, Đội trưởng đội tham mưu làm Ủy viên thư ký.

2.1.3- Công an cấp huyện thành lập Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện làm Chủ tịch Hội đồng, Đội trưởng Đội cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp là Ủy viên thường trực, cán bộ quản giáo, y tế là ủy viên và cán bộ tổng hợp của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện là Ủy viên thư ký.

2.1.4- Các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng hoặc thuộc quân khu thành lập Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do Giám thị làm Chủ tịch, Phó Giám thị làm Ủy viên thường trực, trợ lý giam giữ làm thư ký và các ủy viên gồm: Chính trị viên, Đội trưởng Quản giáo, Đội trưởng vệ binh, Quân y, Văn thư.

2.2. Về Hội đồng thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

2.2.1- Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an thành lập Hội đồng thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an. Thành phần gồm có:

– Cục trưởng Cục giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng, Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp làm Chủ tịch;

– Phó Cục trưởng Cục giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng phụ trách công tác giảm thời hạn chấp hành án phạt tù làm Ủy viên thường trực;

– Trưởng phòng công tác đặc xá, giảm thời hạn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thuộc Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng làm Ủy viên thư ký;

– Phó trưởng Phòng công tác đặc xá, giảm thời hạn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thuộc Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng;

– Đại diện lãnh đạo cấp phòng của Cục Quản lý phạm nhân, trại viên làm ủy viên.

2.2.2- Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh thành lập và làm chủ tịch Hội đồng thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của trại tạm giam Công an tỉnh và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Các thành viên Hội đồng gồm có:

– Trưởng phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp là Ủy viên thường trực;

– Phó trưởng phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, phụ trách công tác thi hành án hình sự là Ủy viên thư ký;

– Và các ủy viên là đại diện lãnh đạo Văn phòng Công an cấp tỉnh, Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan an ninh điều tra.

2.2.3- Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng thành lập và làm chủ tịch Hội đồng thẩm định hồ sơ, danh sách xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng.

Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu thành lập và làm Chủ tịch Hội đồng thẩm định hồ sơ, danh sách hồ sơ giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của các trại giam, trại tạm giam thuộc quân khu.

 

2.3. Thủ tục Lập hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

2.3.1- Trước thời điểm xét giảm quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư này, ít nhất là 20 (hai mươi) ngày, các trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện bố trí cán bộ quản giáo tổ chức họp đội phạm nhân để bình xét, giới thiệu, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho những người có đủ điều kiện và biểu quyết bằng hình thức giơ tay. Cuộc họp phải được lập biên bản, có chữ ký của cán bộ quản giáo và phạm nhân ghi biên bản.

Trên cơ sở kết quả họp đội phạm nhân, cán bộ quản giáo lập danh sách và đề xuất mức giảm cho từng phạm nhân để báo cáo trước Tiểu ban của Phân trại (đối với trại giam có thành lập tiểu ban) hoặc báo cáo Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.

Trường hợp cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có ít phạm nhân thì cán bộ quản giáo không tổ chức họp mà kiểm tra, rà soát, lập danh sách phạm nhân có đủ điều kiện xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, báo cáo Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.

2.3.2- Hội đồng xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự của Công an cấp huyện họp nghe báo cáo kết quả, xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của các tiểu ban (đối với các trại giam có thành lập tiểu ban) hoặc của cán bộ quản giáo phụ trách đội phạm nhân và xét duyệt, đề nghị giảm thời hạn cho từng phạm nhân, sau đó hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách do Chủ tịch Hội đồng ký.

2.3.3- Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam thuộc quân khu, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện chuyển hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đến Hội đồng thẩm định có thẩm quyền để thẩm định.

2.3.4- Hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thực hiện theo quy định khoản 2 Điều 33 Luật thi hành án hình sự.

2.4. Về Thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

2.4.1- Trại giam thuộc Bộ Công an chuyển hồ sơ, danh sách đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân đến Hội đồng thẩm định của Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an để thẩm định. Trại tạm giam thuộc Bộ Công an chuyển hồ sơ, danh sách đến Thủ trưởng đơn vị trực tiếp quản lý để xét duyệt, sau đó chuyển cho Hội đồng thẩm định của Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an thẩm định.

 Hội đồng thẩm định tổ chức họp để thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do trại giam, trại tạm giam chuyển đến. Đối với trường hợp người được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là phạm nhân phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Hội đồng thẩm định phải mời đại diện cơ quan an ninh điều tra của Bộ Công an dự họp hoặc gửi văn bản đề nghị cho ý kiến trước khi Hội đồng họp. Sau khi th�m định hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của các trại giam, trại tạm giam, Hội đồng tổng hợp kết quả và báo cáo Thủ trưởng Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an duyệt.

Căn cứ kết quả thẩm định đã được Thủ trưởng Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Giám thị trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an hoàn thành hồ sơ, danh sách, làm văn bản đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù xem xét, quyết định, đồng thời gửi một bộ hồ sơ, danh sách đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp với Tòa án để thực hiện chức năng kiểm sát theo quy định của pháp luật.

2.4.2- Giám thị trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh và Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện chuyển hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho Hội đồng thẩm định của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh để thẩm định. Căn cứ kết quả thẩm định của Hội đồng, Phòng cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh phối hợp với trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trình Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh có văn bản đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân, đồng thời chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh để thực hiện chức năng kiểm sát.

2.4.3- Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng chuyển hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân đến Hội đồng thẩm định của Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng để thẩm định. Hội đồng thẩm định tiến hành thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do trại giam, trại tạm giam chuyển đến và tổng hợp kết quả, báo cáo Thủ trưởng Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng duyệt.

 Căn cứ kết quả thẩm định đã được Thủ trưởng Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng duyệt, Giám thị trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ QP hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách, làm văn bản đề nghị Tòa án Quân sự cấp quân khu nơi trại giam, trại tạm giam đóng xem xét, quyết định; đồng thời gửi một bộ hồ sơ, danh sách đến Viện kiểm sát quân sự cùng cấp với Tòa án để thực hiện chức năng kiểm sát theo quy định của pháp luật.

2.4.4- Trại giam thuộc quân khu chuyển hồ sơ, danh sách đề nghi xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân đến Hội đồng thẩm định của quân khu để thẩm định. Căn cứ kết quả thẩm định, kiểm tra của Hội đồng, Giám thị trại giam thuộc quân khu có văn bản đề nghị Tòa án quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định đồng thời gửi một bộ hồ sơ, danh sách cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp với Tòa án để thực hiện chức năng kiểm sát theo quy định của pháp luật.

2.4.5- Trại tạm giam thuộc quân khu chuyển hồ sơ, danh sách đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân đến Hội đồng thẩm định của quân khu để thẩm định. Căn cứ kết quả thẩm định, kiểm tra của Hội đồng, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phối hợp với trại tạm giam hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách làm văn bản đề nghị Tòa án quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định; đồng thời gửi một bộ hồ sơ đến viện kiểm sát quân sự cùng cấp với Tòa án để thực hiện chức năng kiểm sát theo quy định của pháp luật.

2.5. Giải quyết trường hợp phạm nhân đã được đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật trước khi có quyết định xét giảm của Tòa án

Trường hợp phạm nhân đã được đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ  hoặc có hành vi vi phạm pháp luật trước khi có quyết định giảm của Tòa án, thì Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải báo cáo kịp thời với Thủ trưởng cơ quan thẩm định quy định tại Điều 13 của Thông tư này, Tòa án có thẩm quyền xét giảm và Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án để loại phạm nhân đó ra khỏi danh sách xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

  1. Xét giảm và thi hành quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

3.1. Xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 

Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu mở phiên họp xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù bằng Hội đồng gồm 03 Thẩm phán, có sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp.

Hội đồng có thể họp tại trụ sở Tòa án hoặc trại giam, trại tạm giam nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù.

3.2. Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện như sau

– Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hoặc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu gửi đến;

– Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến;

– Hội đồng thảo luận và xem xét, quyết định.

3.3. Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng quyết định

  1. a) Không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù;
  2. b) Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

Hội đồng không được quyết định mức giảm cao hơn mức đề nghị của trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ quốc phòng, trại giam thuộc quân khu hoặc cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu;

Đối với phạm nhân được đề nghị xét giảm, đến ngày Hội đồng họp xét giảm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại không quá 01 (một) tháng, thì Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn tù còn lại.

3.4. Kháng nghị và phúc thẩm quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

Quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Việc phúc thẩm quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện theo quy định tại Điều 253 của Bộ luật tố tụng hình sự.

(Điều 253 BLTTHS. 1. Đối với những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng nghị hoặc kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm không phải mở phiên tòa, nhưng nếu xét cần thì có thể triệu tập những người tham gia tố tụng cần thiết để nghe ý kiến của họ trước khi tòa án ra quyết định. 2. Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. 3. Khi xét những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm có những quyền hạn quy định tại Điều 248 của Bộ luật này. 4. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định).

3.5. Thi hành quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

3.5.1. Quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp thời gian được giảm bằng thời hạn tù còn lại phải chấp hành thì quyết định của Tòa án được thi hành ngay.

3.5.2. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải tổ chức công bố công khai quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho toàn thể phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ biết và làm thủ tục trừ thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân để lưu hồ sơ phạm nhân.

3.5.3. Sau khi công bố quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân, Giám thị trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cấp quân khu tổng hợp tình hình, kết quả cụ thể báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để theo dõi, chỉ đạo.

III. GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ

  1. Đối tượng áp dụng

Đối với người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú và quản chế; các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án phạt cải tạo không giam giữ.

  1. Nguyên tắc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ
  2. a) Tuân thủ quy định của pháp luật.
  3. b) Bảo đảm chính sách khoan hồng, nhân đạo xã hội chủ nghĩa và bình đẳng trước pháp luật.
  4. c) Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế.
  5. d) Khuyến khích người chấp hành án tự giác phấn đấu, tích cực học tập, lao động, chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định thi hành án và nghĩa vụ của người chấp hành án.
  6. Thẩm quyền xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

Tòa án có thẩm quyền xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ là Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự khu vực nơi người phải chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ (Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 77 luật thi hành án hình sự và Điều 6 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT ngày 16/8/2012).

  1.   Điều kiện giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
  2. a) Đã chấp hành được 1/3 thời hạn án phạt; đối với người chưa thành niên là 1/4 thời hạn án phạt.
  3. b) Có nhiều tiến bộ.

Có nhiều tiến bộ là việc người chấp hành án có nhiều nỗ lực, cố gắng và đạt nhiều thành tích trong việc chấp hành án và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị nơi cư trú, làm việc.

  1. Mức giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

   5.1. Người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ mỗi năm được xét giảm thời hạn một lần từ 03 tháng đến 09 tháng. Trường hợp trong năm đó, sau khi được giảm thời hạn chấp hành án mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lập công mới hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm tiếp nhưng tối đa là 02 lần trong 01 năm (lập công, mắc bệnh hiểm nghèo cũng giống như quy định ở phần miễn, giảm chấp hành hình phạt tù).

   5.2. Người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có thể được giảm nhiều lần nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là 1/2 mức án; đối với người phải chấp hành án là người chưa thành niên thì phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành là 2/5 mức án.

  1. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp đặc biệt

   6.1. Người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đã lập công, đã quá già yếu hoặc bị bệnh hiểm nghèo đã chấp hành được 1/4 thời hạn án phạt thì có thể xét giảm thời hạn chấp hành án, mức giảm mỗi lần cao hơn là 01 năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là 2/5 mức án.

   6.2. Người chưa thành niên chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay. Trường hợp đã chấp hành được 2/5 mức án mà sau khi xét giảm, thời hạn chấp hành án còn lại không quá 01 năm thì có thể được giảm hết thời hạn còn lại.

   (Lập công, lập công lớn, đã quá già yếu giống như quy định ở phần miễn, giảm hình phạt chấp hành hình phạt tù).

  1. Thủ tục đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

   7.1. Khi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có đủ điều kiện được hướng dẫn tại Điều 6 hoặc Điều 8 thông tư liên tịch này thì Trưởng công an cấp xã nơi người chấp hành án cư trú có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân xã tổ chức cuộc họp hoặc Thủ trưởng đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ phải tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cư trú hoặc đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ làm việc để xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cho họ.

   7.2. Cuộc họp xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của Ủy ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch chủ trì với thành phần tham gia gồm: Đại diện Mặt trận tổ quốc; Công an; Tư pháp cấp xã; Người được giao trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp hành án.

    Cuộc họp xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ trong quân đội do Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng đơn vị quân đội chủ trì. Thành phần tham gia gồm đại diện các tổ chức đoàn thể trong đơn vị quân đội và người được giao trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp hành án.

   7.3. Hồ sơ đề nghị xem xét, giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội gồm có:

  1. a) Bản sao bản án. Đối với trường hợp xét giảm lần thứ hai trở đi thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án;
  2. b) Quyết định giảm thời hạn chấp hành án (nếu người phải chấp hành án đã được giảm);
  3. c) Văn bản đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội;
  4. d) Quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người chấp hành án lập công (nếu có);

   đ) Kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật (nếu người chấp hành án bị bệnh hiểm nghèo). Trường hợp người quá già yếu thì phải có xác nhận của y tế cấp xã trở lên hoặc quân y của đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án;

  1. e) Đơn xin giảm án của người chấp hành án cải tạo không giam giữ (nếu họ có đơn đề nghị).

   7.4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của UBND cấp xã hoặc đơn vị quân đội. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải lập hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều 77 của luật thi hành án hình sự và có văn bản đề nghị giảm thời hạn cải tạo không giam giữ gửi Tòa án nhân dân cùng cấp hoặc Tòa án quân sự khu vực để xem xét, quyết định. Đồng thời sao gửi 01 bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.

  1. Thủ tục xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

   8.1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề ghị giảm thời hạn ch�p hành án cải tạo không giam giữ, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành án cải tạo không giam giữ cư trú hoặc Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người chấp hành án cải tạo không giam giữ làm việc phải thành lập Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý hồ sơ, thẩm phán được phân công phải ấn định ngày mở phiên họp xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp không quá 15 ngày, kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.

   Trường hợp cần bổ sung tài liệu hoặc tài liệu chưa rõ ràng thì thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị bổ sung hoặc làm rõ thêm. Trong trường hợp này, thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày Tòa án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần làm rõ thêm.

    8.2. Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ gồm 03 Thẩm phán hoặc 02 Thẩm phán và 01 Hội thẩm (đối với Tòa không có đủ 03 Thẩm phán), có sự tham gia của kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.

8.3. Trình tự, thủ tục xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:

  1. a) Một thành viên Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
  2. b) Đại diện Viện kiểm sát phát biểu;
  3. c) Hội đồng thảo luận và quyết định.

8.4. Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ quyết định:

  1. a) Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần đề nghị giảm thời hạn chấp hành án.

   Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, mà thời hạn chấp hành án còn lại dưới 01 tháng thì Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn còn lại.

  1. b) Không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành án.

8.5. Nội dung quyết định về việc giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:

  1. a) Ngày, tháng năm ra quyết định;
  2. b) Tên Tòa án ra quyết định;

c)Thành phần Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành án;

  1. d) Họ và tên người được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án, nơi chấp hành án;

đ) Nhận định của Tòa án và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.

  1. MIỄN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
  2. 1. Điều kiện miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

Người bị phạt cải tạo không giam giữ có thể được Tòa án (huyện) hoặc Tòa án quân sự (khu vực) miễn chấp hành án phạt khi có đủ điều kiện sau:

  1. a) Đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
  2. b) Không còn nguy hiểm cho xã hội.

  (Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội là trường hợp người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào thi đua của địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án).

  1. Thủ tục đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

   2.1. Trường hợp người cải tạo không giam giữ đã có quyết định thi hành án, nhưng chưa chấp hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại Điều 11 Thông tư này thì VKSND cấp huyện hoặc VKSQS khu vực nơi người chấp hành án cư trú hoặc làm việc tự mình hoặc theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu xem xét, lập hồ sơ đề nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án.

   2.2. Trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ đang chấp hành án nếu có đủ các điều kiện nêu trên (đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo; Không còn nguy hiểm cho xã hội) và có đơn xin miễn chấp hành án thì Trưởng Công an cấp xã có nhiệm vụ giúp UBND cấp xã tổ chức cuộc họp hoặc Thủ trưởng đơn vị quân đội phải tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người chấp hành án cư trú, làm việc xem xét đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cho họ.

    Thành phần, nội dung cuộc họp xét, đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cũng giống như cuộc họp đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.

2.3. Hồ sơ đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ gồm:

  1. a) Bản sao bản án đã có hiệu lực;
  2. b) Đơn xin miễn chấp hành án của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ hoặc người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật;
  3. c) Văn bản đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ của UBND cấp xã hoặc đơn vị quân đội;
  4. d) Quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền đối với trường hợp lập công (nếu có);

đ) Văn bản kết luận của bệnh viện cấp tỉnh hoặc bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật đối với trường hợp bị bệnh hiểm nghèo (nếu có).

2.4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị xem xét việc miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ (do Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội lập), cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm xem xét, đề nghị bằng văn bản kèm theo hồ sơ đề nghị của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội chuyển đến, gửi Viện kiểm sát cấp huyện hoặc Viện kiểm sát quân sự khu vực xem xét, đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, lập hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật thi hành án hình sự đề nghị Tòa án cùng cấp xem xét, quyết định.

 (Văn bản đề nghị và hồ sơ cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự quân khu gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện hoặc Viện kiểm sát quân sự cấp khu vực là điểm khác về thủ tục giữa miễn và giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ).

2.5. Thủ tục xét, quyết định miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ

Về trình tự, thủ tục xét, thành phần Hội đồng, thẩm quyền quyết định miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cũng giống như thủ tục xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.

(Trong hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Chánh án phải thành lập Hội đồng xét miễn, phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ; trong hạn 05 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý, Thẩm phán phải ấn định ngày mở phiên họp và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp; trường hợp phải bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ bổ sung hoặc văn bản phúc đáp yêu cầu bổ sung hồ sơ. Phiên họp xét quyết định miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ gồm 03 thẩm phán hoặc 02 Thẩm phán và 01 Hội thẩm nhân dân và đại diện Viện kiểm sát cùng cấp; Tại phiên họp một thành viên Hội đồng trình bày về hồ sơ đề nghị miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ do UBND xã hoặc đơn vị quân đội nơi người chấp hành án lập và đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện hoặc đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, đề nghị của Viện kiểm sát; sau đó nghe ý kiến của kiểm sát viên thay mặt Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, đề nghị; Hội đồng căn cứ vào hồ sơ, văn bản đề nghị và căn cứ quy định của pháp luật, bàn bạc, thảo luận và quyết định chấp nhận đề nghị miễn hay không chấp nhận hay chỉ chấp nhận một phần. Hội đồng quyết định bằng văn bản trong đó có nêu quan điểm đánh giá của Hội đồng về việc miễn hoặc không miễn hoặc miễn một phần đối với đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự và Viện kiểm sát.

  1. MIỄN CHẤP HÀNH THỜI HẠN CẤM CƯ TRÚ, QUẢN CHẾ CÒN LẠI
  2. Điều kiện miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại

Người chấp hành án phạt cấm cư trú, quản chế có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. a) Đã chấp hành được 1/2 án phạt.
  2. b) Cải tạo tiến bộ.

 (Cải tạo tiến bộ là việc người chấp hành án có nhiều nỗ lực, cố gắng và đạt nhiều thành tích trong việc chấp hành án và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị nơi cư trú, làm việc).

  1. Thủ tục đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại

2.1. Người chấp hành án phạt cấm cư trú, quản chế có đủ các điều kiện theo quy định (đã chấp hành được 1/2 án phạt, Cải tạo tiến bộ) và có đơn xin miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại, thì Trưởng Công an cấp xã nơi người bị phạt cấm cư trú, quản chế chấp hành án có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân xã tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện xem xét, đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn  lại cho họ.

2.2. Hồ sơ đề nghị xem xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại (khoản 1 Điều 86 và khoản 1 Điều 95 luật thi hành án hình sự) bao gồm:

  1. a) Bản sao bản án; bản sao quyết định thi hành án;
  2. b) Văn bản đề nghị miễn thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại của Ủy ban nhân dân cấp xã;
  3. c) Đơn xin miễn chấp hành án của người chấp hành án phạt cấm cư trú hoặc quản chế;
  4. d) Tài liệu liên quan khác (nếu có).

2.3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của UBND cấp xã, nếu thấy việc miễn chấp hành thời hạn án phạt cấm cư trú, quản chế còn lại cho người chấp hành án không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện làm văn bản đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại kèm theo hồ sơ mà Ủy ban nhân nhân xã đã lập gửi Tòa án cùng cấp nơi người chấp hành án cư trú xem xét, quyết định. Đồng thời, sao gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.

  1. Thủ tục xét, quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại

Về trình tự, thủ tục xét, quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại cũng giống như thủ tục xét quyết định miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ. Cụ thể:

3.1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành thời hạn cấm cư trú phải thành lập Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công phải ấn định ngày mở phiên họp xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử Kiểm sát viên dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp không quá 15 ngày, kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị. Trường hợp cần phải bổ sung hồ sơ hoặc hồ sơ chưa rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị bổ sung hoặc làm rõ thêm. Trong trường hợp này, thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày Tòa án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần làm rõ thêm.

3.2. Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại gồm 03 Thẩm phán hoặc 02 Thẩm phán và 01 Hội thẩm (đối với Tòa án cấp huyện không có đủ 03 Thẩm phán), có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.

3.3. Trình tự xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại: Tại phiên họp:

  1. a) Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
  2. b) Đại diện Viện kiểm sát phát biểu;
  3. c) Hội đồng thảo luận và quyết định.

3.4. Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại quyết định:

  1. a) Chấp nhận đề nghị miễn chấp hành thời hạn án phạt còn lại;
  2. b) Không chấp nhận đề nghị miễn chấp hành thời hạn án phạt còn lại.

   3.5. Nội dung quyết định miễn hoặc không chấp nhận miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại:

  1. a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
  2. b) Tên Tòa án ra quyết định;
  3. c) Thành phần Hội đồng xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại;
  4. d) Họ và tên người được đề nghị xét miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế;

đ) Nhận định của Tòa án và các căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại, trường hợp quyết định không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.

  1. Gửi quyết định giảm, miễn thời hạn chấp hành án

4.1. Quyết định của Tòa án về giảm, miễn thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ được gửi các cơ quan theo quy định tại khoản 3 Điều 77 và khoản 3 Điều 78 của Luật thi hành án hình sự.

4.2. Quyết định của Tòa án về việc miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại được gửi các cơ quan theo quy định tại khoản 3 Điều 86 và khoản 3 Điều 95 của Luật thi hành án hình sự.

Có nghĩa là trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải gửi quyết định cho người được miễn, giảm; cơ quan đề nghị miễn, giảm; Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp; Tòa án đã ra quyết định thi hành án và Sở tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.

  1. Kháng nghị và phúc thẩm quyết định giảm, miễn thời hạn chấp hành án phạt

5.1. Quyết định của Tòa án về việc giảm, miễn thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

5.2. Quyết định của Tòa án về việc giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc quản chế còn lại không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

  1. THỦ TỤC RÚT NGẮN THỜI GIAN THỬ THÁCH CỦA ÁN TREO

Về rút ngắn thời gian thử thách của án treo được quy định tại khoản 4 Điều 60 Bộ luật hình sự; Điều 66 Luật Thi hành án hình sự; khoản 2 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự và được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT ngày 14/8/2012 của liên ngành Bộ Công an- Bộ Quốc phòng- Tòa án nhân dân tối cao- Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nội dung cụ thể như sau:

  1. Đối tượng được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo

 Người bị phạt tù nhưng được hưởng án treo và trong thời gian thử thách.

  1. Điều kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo
  2. a) Đã chấp hành được ½ thời gian thử thách của án treo;
  3. b) Có nhiều tiến bộ, được thể hiện bằng việc trong thời hạn thử thách thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo; chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước; nội quy, quy chế nơi làm việc; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm, thi hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ khác theo quyết định của bản án.
  4. c) Được UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.
  5. Mức giảm

Mỗi năm, người được hưởng án treo được rút ngắn (giảm) thời hạn thử thách 01 lần từ 01 tháng đến 12 tháng. Một người có thể được giảm nhiều lần nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là ¾ thời gian thử thách mà án đã tuyên.

Lưu ý: Người được hưởng án treo đã được cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách nhưng không được Tòa án chấp nhận, nếu sau đó có tiến bộ mới thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo tiếp tục đề nghị rút ngắn thời hạn thử thách cho họ.

Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện về rút ngắn thời hạn thử thách thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại.

 Lập công là trường hợp người được hưởng án treo có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những sáng kiến có giá trị được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận hoặc có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định khen thưởng hoặc xác nhận.

 Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị  bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.

  1. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền đề nghị rút ngắn thử thách của án treo

4.1. Người được hưởng án treo có đủ điều kiện pháp luật quy định (đã chấp hành được ½ thời hạn thử thách, cải tạo có nhiều tiến bộ) thì Trưởng công an cấp xã có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành án treo cư trú xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo; Thủ trưởng đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án treo tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người được hưởng án treo làm việc để xem xét việc rút ngắn thời thử thách cho người được hưởng án treo.

4.2. Cuộc họp xét, đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo của Ủy ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì với thành phần gồm đại diện lãnh đạo Công an, Mặt trận tổ quốc, Tư pháp cấp xã, người được giao trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Cuộc họp xét, đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo của đơn vị quân đội do Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng đơn vị quân đội chủ trì với thành phần gồm đại diện các tổ chức đoàn thể trong đơn vị quân đội, người được giao trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

4.3. Hồ sơ đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội gồm có:

  1. a) Bản sao bản án. Đối với trường hợp xét rút ngắn thời gian thử thách từ lần thứ hai trở đi thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án treo;
  2. b) Văn bản đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo (trong đó phải ghi rõ họ, tên, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; tội danh, thời hạn tù, thời gian thử thách; số bản án hình sự, số quyết định thi hành án; thời gian thử thách đã chấp hành, thời gian thử thách còn lại; tóm tắt quá trình phạm tội của người được hưởng án treo, mối quan hệ gia đình (bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con), nhận xét của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội về việc chấp hành nghĩa vụ của người được hưởng án treo; đề nghị mức rút ngắn thời gian thử thách);
  3. c) Quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người được hưởng án treo lập công (nếu người được hưởng án treo đã được khen thưởng hoặc lập công);
  4. d) Kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật (nếu người được hưởng án treo bị mắc bệnh hiểm nghèo);

đ) Đơn xin rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo (nếu họ có đơn đề nghị);

  1. e) Bản sao quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo (nếu đã được rút ngắn thời gian thử thách của án treo).

4.4. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án hình sự, văn bản đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của cơ quan thi hành án và chuyển hồ sơ, văn bản đề nghị cho Tòa án cấp huyện nơi người được hưởng án treo cư trú, Tòa án quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo làm việc xem xét, quyết định. Đồng thời sao gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo.

Văn bản đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nội dung sau: Căn cứ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo; họ tên, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; tội danh, thời hạn phạt tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách; số bản án hình sự, số quyết định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách đã chấp hành, thời gian thử thách còn lại; tóm tắt quá trình phạm tội của người được hưởng án treo, mối quan hệ gia đình (bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con), nhận xét của cơ quan thi hành án hình sự về việc chấp hành nghĩa vụ của người được hưởng án treo; đề nghị mức rút ngắn thời gian thử thách.

  1. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách

5.1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành án treo cư trú, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người chấp hành án treo làm việc phải thành lập Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo và phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công phải ấn định ngày mở phiên họp xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Thời hạn mở phiên họp không vượt quá mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp cần phải bổ sung tài liệu hoặc tài liệu chưa rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự bổ sung hoặc làm rõ thêm. Trong trường hợp này, thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày Tòa án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản về vấn đề cần làm rõ thêm.

5.2. Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo gồm ba Thẩm phán hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với Tòa án cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực không có đủ ba Thẩm phán), có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.

5.3. Trình tự, thủ tục xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo tiến hành như sau:

  1. a) Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
  2. b) Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến;
  3. c) Hội đồng thảo luận và quyết định.

5.4. Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo có quyền:

  1. a) Chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo mà thời gian thử thách còn lại không quá một tháng, thì Hội đồng có thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại;
  2. b) Chấp nhận một phần đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo;
  3. c) Không chấp nhận đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo.

5.5. Hội đồng ra quyết định về việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo với các nội dung sau:

  1. a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
  2. b) Tên Tòa án ra quyết định;
  3. c) Thành phần của Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo;
  4. d) Họ tên, nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được hưởng án treo được đề nghị xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo;

đ) Nhận định của Tòa án và những căn cứ để chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo;

  1. e) Quyết định của Tòa án về việc chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Trường hợp Tòa án quyết định không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.

5.6. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người được rút ngắn thời gian thử thách, cơ quan đề nghị rút ngắn thời hạn thử thách, VKS cùng cấp, VKS cấp trên trực tiếp, Tòa án đã quyết định thi hành án phạt tù cho hưởng án treo, Sở tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định có trụ sở.

5.7. Quyết định về việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo của Tòa án có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

Việc phúc thẩm quyết định của Tòa án về rút ngắn thời gian thử thách của án treo được thực hiện theo quy định tại Điều 253 của Bộ luật tố tụng hình sự.

5.8 Quyết định của Tòa án về việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

VII. GIẢM, MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TIỀN

  1. Khái niệm những thuật ngữ được sử dụng trong chế định giảm, miễn chấp hành hình phạt tiền

1.1. “Khoản thu nộp ngân sách Nhà nước” là các khoản tiền thu được phải nộp vào Ngân sách Nhà nước gồm: tiền phạt, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ Nhà nước được xác định trong bản án, quyết định của Toà án.

1.2. “Miễn thi hành án” là trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ nộp một khoản tiền, tài sản để thu nộp ngân sách Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thực hiện hoặc mới thực hiện được một phần mà có đủ các điều kiện do pháp luật quy định và hướng dẫn của Thông tư liên tịch này nên được Toà án có thẩm quyền quyết định miễn thi hành toàn bộ các khoản thu nộp ngân sách Nhà nước còn lại.

1.3. “Giảm thi hành án” là trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ nộp một khoản tiền, tài sản để thu nộp ngân sách nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thực hiện hoặc mới thực hiện được một phần mà có đủ các điều kiện do pháp luật quy định và hướng dẫn của Thông tư liên tịch này nên được Toà án có thẩm quyền quyết định giảm thi hành một phần các khoản thu nộp ngân sách Nhà nước.

1.4. “Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án” là người không có tài sản tại thời điểm xác minh hoặc có tài sản nhưng giá trị nhỏ, không đủ hoặc chỉ đủ chi phí thi hành án, tài sản mà theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc tài sản không bán được, không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ đủ đảm bảo cuộc sống tối thiểu của bản thân họ và gia đình.

1.5.“Người phải thi hành án lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài” là người bị mất toàn bộ hoặc phần lớn tài sản, mất hoặc giảm thu nhập, không đảm bảo hoặc chỉ đảm bảo được tối thiểu cuộc sống cho bản thân người đó và gia đình kể từ thời điểm bị thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, đau ốm đến thời điểm xét miễn, giảm thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án tự gây ra tai nạn, ốm đau cho bản thân nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

1.6. “Người phải thi hành án lập công lớn” là người đã có hành động giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng chế, hoặc sáng kiến có giá trị; được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận.

  1. Các khoảntiền phạtthuộc diện được xét miễn, giảm thi hành án

2.1. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

2.2. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 3 Điều 76 của Bộ luật Hình sự.

2.3. Các khoản truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ Nhà nước và các khoản tiền phạt khác được xác định trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.

Như vậy là các khoản tiền bồi thường thiệt hại không thuộc diện được miễn, giảm thi hành án.

  1. Nguyên tắc xét miễn, giảm thi hành án

3.1. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt tiền mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Toà án chỉ xét  giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt tiền.

3.2. Người được xét miễn, giảm thi hành án không phải nộp các chi phí liên quan đến việc xét miễn, giảm. Chi phí cho việc xét miễn, giảm thi hành án được lấy từ kinh phí trong hoạt động của các cơ quan liên quan đến việc xét miễn, giảm.

  1. Thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành án

4.1. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu xét thấy người phải thi hành án có các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự; khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 của Bộ luật Hình sự thì Chấp hành viên được giao thi hành vụ việc tiến hành xác minh, lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án và báo cáo Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án.

Trường hợp, người phải thi hành án có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án, thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn, Chấp hành viên được giao thi hành vụ việc phải xác minh, nếu đủ điều kiện để xét miễn, giảm thì lập hồ sơ xét miễn, giảm thi hành án theo quy định. Trường hợp chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án thì trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn phải thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án biết.

Điều 61. (Luật thi hành án dân sự) Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân Nhà nước. 1. Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước thì có thể được miễn nghĩa vụ thi hành án khi hết thời hạn sau: a) 05 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản án phí không có giá ngạch; b) 10 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị dưới 5.000.000 (Năm triệu) đồng. 2. Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách Nhà nước mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại khi hết thời hạn sau đây: a) 05 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại dưới 5.000.000 (năm triệu) đồng; b) 10 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại dưới 10.000.000 (mười triệu) đồng. 3. Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét giảm một phần nghĩa vụ thi hành án sau khi hết thời hạn sau đây: a) 05 năm kể từ ngày kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 (mười triệu) đồng đến 100.000.000 (một trăm triệu) đồng; 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ có giá trị còn lại có giá trị trên 100.000.000 (một trăm triệu) đồng. 4. Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án được tiến hành thường xuyên nhưng mỗi người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm một lần trong 01 năm. Trường hợp một người phải thi hành nhiều khoản nộp ngân sách Nhà nước trong nhiều bản án, quyết định khác nhau thì đối với mỗi bản án, quyết định, người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm một lần trong 01 năm.

4.2. Đối với phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự; khoản tiền phạt quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, căn cứ hồ sơ thi hành án do Cơ quan thi hành án dân sự cung cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn, giảm thi hành án.

4.3. Đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước do Thi hành án quân khu và tương đương thụ lý thi hành thì cơ quan đó trực tiếp đề nghị Toà án quân sự khu vực nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc xét miễn, giảm thi hành án.

Trường hợp phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự; khoản tiền phạt quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự do Thi hành án quân khu và tương đương thụ lý thi hành, nếu xét thấy hồ sơ có đủ các điều kiện xét miễn, giảm thi hành án, thì Viện kiểm sát quân khu và tương đương uỷ quyền cho Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn, giảm thi hành án và thông báo cho đương sự biết.

  1. Thẩmquyền xét miễn, giảm thi hành án

5.1. Thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước là Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực (khoản 1 Điều 63 Luật thi hành án dân sự).

5.2. Thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án đối với phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật hình sự; khoản tiền phạt quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật hình sự được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự.

  1. Hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án

6.1. Hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 62 Luật Thi hành án dân sự: Cơ quan thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, miễn giảm nghĩa vụ thi hành án. Hồ sơ gồm các tài liệu sau: 1. Văn bản đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát trong trường hợp đề nghị xét miễn, giảm khoản tiền phạt; 2. Bản án, quyết định của Tòa án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự; Biên bản xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án được thực hiện trong thời hạn không quá 03 tháng trước khi đề nghị xét miễn, giảm; 4. Tài liệu khác chứng minh điều kiện được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án, nếu có; 5. Ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.

6.2. Kiểm tra xác minh điều kiện thi hành án.

 – Biên bản xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên, cán bộ Cơ quan thi hành án dân sự lập cần xác định rõ việc người phải thi hành án không có tài sản hoặc nguồn thu nhập để thi hành án, biên bản phải có xác nhận của Tổ trưởng Tổ dân phố (thôn, ấp), Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh.

  – Đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù, ngoài biên bản xác minh của Chấp hành viên về điều kiện thi hành án tại nơi cư trú, làm việc của người phải thi hành án, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự gửi phiếu đề nghị Giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù xác nhận trong quá trình chấp hành hình phạt tù phạm nhân là người phải thi hành án có: lập công lớn; bị bệnh nặng; có tài sản gửi ở bộ phận lưu ký tại trại giam, trại tạm giam; kết quả thi hành khoản thu nộp ngân sách Nhà nước do trại giam, trại tạm giam thu (nếu có).

 – Giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù khi nhận được phiếu đề nghị kiểm tra, xác nhận điều kiện thi hành án của người phải thi hành án có trách nhiệm kiểm tra, xác nhận và chuyển phiếu xác nhận đó cho Cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phiếu yêu cầu.

6.3. Tài liệu khác chứng minh điều kiện được xét miễn, giảm thi hành án của người phải thi hành án gồm:

  1. a) Chứng từ thu – chi tiền thi hành án (nếu có);
  2. b) Giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người phải thi hành án cư trú đối với trường hợp người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án; trường hợp người phải thi hành án đang làm việc tại cơ quan, tổ chức thì phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc;
  3. c) Giấy tờ xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên trong trường hợp người phải thi hành án bị tai nạn, đau ốm kéo dài;
  4. d) Giấy tờ xác nhận của cơ quan phòng cháy, chữa cháy trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị hỏa hoạn;

đ) Giấy tờ xác nhận của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Trại giam, Trại tạm giam nơi người phải thi hành án bị giam, giữ trong trường hợp người phải thi hành án đã lập công lớn hoặc lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài;

  1. e) Các tài liệu chứng minh khác.
  2. Kiểm sát hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án

7.1. Vào tháng đầu của mỗi quý, Cơ quan thi hành án dân sự quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này có trách nhiệm chuyển hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm được lập trong quý trước cho Viện kiểm sát cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc để thực hiện việc kiểm sát.

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải xem xét và chuyển hồ sơ cho Toà án kèm theo văn bản nêu rõ ý kiến của Viện kiểm sát về các hồ sơ đề nghị miễn, giảm hoặc văn bản đề nghị miễn, giảm thi hành án và thông báo cho Cơ quan thi hành án dân sự thụ lý hồ sơ xét miễn, giảm biết.

7.2. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự giải thích những điểm chưa rõ hoặc bổ sung những giấy tờ cần thiết. Trường hợp có căn cứ xác định rõ người phải thi hành án có đủ điều kiện để được xét miễn, giảm thi hành án nhưng Cơ quan Thi hành án dân sự không lập hồ sơ, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án.

  1. Thủ tục xét miễn, giảm thi hành án

8.1. Trong thời hạn (05) năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án, Chánh án Toà án có thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án chỉ định một Thẩm phán thụ lý hồ sơ và giải quyết việc xét miễn, giảm thi hành án. Thẩm phán được chỉ định có quyền yêu cầu Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự giải thích những điểm chưa rõ hoặc bổ sung các giấy tờ cần thiết trong thời hạn (05) năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu. Quá thời hạn đó mà cơ quan được yêu cầu không bổ sung các giấy tờ cần thiết, thì Thẩm phán trả lại hồ sơ cho cơ quan đã đề nghị.

8.2. Tổ chức phiên họp xét miễn, giảm thi hành án:

 Phiên họp xét miễn, giảm thi hành án được tổ chức theo quy định tại khoản 3 Điều 63 Luật thi hành án dân sự. (Do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và cán bộ cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm).

Thẩm phán chủ trì phiên họp xét miễn, giảm thi hành án có trách nhiệm thông báo về thời gian, địa điểm phiên họp xét miễn, giảm tới đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm. Khi tiến hành xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đại diện cơ quan thi hành án dân sự trình bày đề nghị xét miễn giảm; đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm. Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, Thẩm phán ra quyết định chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị xét miễn, giảm thi hành án.

Quyết định của Thẩm phán phải có các nội dung chính sau:

  1. a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
  2. b) Tên Toà án ra quyết định;
  3. c) Họ, tên Thẩm phán và đại diện các cơ quan tham gia phiên họp;
  4. d) Họ, tên, nơi cư trú, làm việc, nơi đang chấp hành hình phạt tù của người phải thi hành án (nếu có) và khoản nộp ngân sách Nhà nước phải thi hành;

đ) Nhận định của Toà án và những căn cứ để chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị xét miễn, giảm thi hành án của Viện kiểm sát hoặc Cơ quan thi hành án;

  1. e) Quyết định của Toà án cho miễn thi hành án khoản nộp ngân sách nhà nước, số tiền được miễn; quyết định cho giảm một phần khoản nộp ngân sách Nhà nước, số tiền được giảm, số tiền còn phải thi hành và hiệu lực thi hành sau bảy ngày kể từ ngày ký.
  2. Kháng nghị quyết định của Toà án vềmiễn, giảm thi hành án

9.1. Kháng nghị quyết định của Toà án về miễn, giảm thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 64 của Luật Thi hành án dân sự: 1. Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án có thể bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. 2.Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định kháng nghị, Tòa án đã ra quyết định phải chuyển hồ sơ và quyết định kháng nghị lên Tòa án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng nghị. Tòa án cấp trên trực tiếp phải mở phiên họp để xét kháng nghị.

Phiên họp xét kháng nghị do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm tham dự. Thẩm phán chủ trì phiên họp ra quyết định giải quyết kháng nghị. Quyết định của Tòa án về giải quyết kháng nghị việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án có hiệu lực thi hành. 4. Trường hợp viện kiểm sát rút quyết định kháng nghị trước hoặc trong phiên họp xét kháng nghị thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét kháng nghị. Quyết định xét giảm, miễn thi hành án bị kháng nghị có hiệu lực thi hành. 5. Trường hợp sau khi quyết định cho miễn, giảm thi hành án có hiệu lực mà phát hiện người phải thi hành án có hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản để xin miễn, giảm, trốn tránh thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự, Viện kiểm sát đã đề nghị xét miễn, giảm có trách nhiệm đề nghị chánh án Tòa án, viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tố tụng dân sự xem xét việc kháng nghị quyết định miễn, giảm thi hành án theo thủ tục tái thẩm.

Thẩm phán chủ trì phiên họp xét kháng nghị miễn, giảm thi hành án có trách nhiệm thông báo về thời gian, địa điểm phiên họp xét kháng nghị tới đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự trong trường hợp Toà án yêu cầu đại diện cơ quan thi hành án dân sự đã lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm tham dự.

9.2. Quyết định giải quyết kháng nghị của Thẩm phán phải có các nội dung chính sau:

  1. a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
  2. b) Họ, tên, nơi cư trú, làm việc, nơi đang chấp hành hình phạt tù (nếu có) của người phải thi hành án và khoản tiền phạt, án phí phải thi hành;
  3. c) Tên Toà án đã xét miễn, giảm và nội dung quyết định miễn, giảm bị kháng nghị;
  4. d) Nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát;

đ) Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm và các căn cứ để Toà án ra quyết định;

  1. e) Quyết định giữ nguyên, sửa đổi một phần hoặc huỷ toàn bộ quyết định của Toà án về việc miễn, giảm thi hành án.
  2. Thi hành quyết định của Toà án về việc miễn, giảm thi hành án

10.1. Căn cứ quyết định có hiệu lực của Toà án về việc miễn thi hành án, Cơ quan thi hành án dân sự đã lập hồ sơ phải ra quyết định đình chỉ thi hành phần nghĩa vụ thi hành án được miễn.

Trường hợp Toà án quyết định cho giảm một phần nghĩa vụ thi hành án, Cơ quan thi hành án dân sự đã lập hồ sơ phải ra quyết định đình chỉ thi hành phần nghĩa vụ thi hành án được giảm và tiếp tục thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước còn lại.

10.2. Đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước không được Toà án quyết định cho miễn, giảm, Cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm tiếp tục tổ chức thi hành án. Trường hợp hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm bị Toà án trả lại do thực hiện không đúng thủ tục, Cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm hoàn thiện lại hồ sơ để chuyển cơ quan có thẩm quyền xem xét trong kỳ xét miễn, giảm gần nhất.

  1. Xử lý vi phạm về việc xét miễn, giảm thi hành án

Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên xem xét, quyết định việc xử phạt hành chính theo quy định tại Chương VII Luật thi hành án dân sự; Viện kiểm sát xem xét việc truy cứu trách nhiệm đối với người phải thi hành án cố tình cất giấu, tẩu tán tài sản để xin miễn, giảm trốn tránh việc thi hành án.

Trong quá trình người bị kết án chấp hành án, Nhà nước không chỉ tạo điều kiện tốt nhất cho họ cải tạo mà còn có chính sách khuyến khích, động viên, khơi dậy tính tự giác, tích cực phấn đấu học tập, lao động, chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định thi hành án và nội quy, quy chế trại giam để họ có thể được hưởng chính sách giảm án tha tù hàng năm hoặc được miễn chấp hành hình phạt, được đặc xá nhờ đó người bị kết án sớm hoàn lương, sớm tái hòa nhập cộng đồng hoặc họ sớm ổn định cuộc sống sau khi được giảm, miễn chấp hành án phạt tiền, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú hoặc quản chế… và có cơ hội với tư cách một công dân lương thiện tham gia cống hiến vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là thể hiện bản chất nhân đạo và tính ưu việt của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

BÀI 10:

HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG

XÉT XỬ VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ

 

Trong xu thế hiện nay, mối quan hệ giữa nước ta với các quốc gia khác trên thế giới ngày càng được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và cùng với các quốc gia khác, chúng ta đang kiếm tìm tiếng nói chung trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.

Trong những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập bên cạnh những mặt tích cực, tình trạng tội phạm ở nước ta và trên thế giới diễn biến ngày càng phức tạp và nghiêm trọng, tình  trạng  người Việt Nam phạm tội ở trong nước bỏ trốn ra nước ngoài, hoặc phạm tội ở nước ngoài bỏ trốn về Việt Nam; người nước ngoài phạm tội ở nước ngoài trốn sang Việt Nam, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam bỏ trốn về nước, các băng nhóm tội phạm ở trong nước câu kết với các tổ chức tội phạm mước ngoài mua bán phụ nữ, trẻ em, các tội phạm quốc tế như khủng bố, không tặc, truyền thanh bất hợp pháp, các tội xâm phạm sự phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội của các quốc gia như huỷ hoại môi trường sống, trộm cắp, phá huỷ di sản văn hoá dân tộc và nhân loại, buôn lậu, di cư bất hợp pháp, buôn bán các chất ma tuý, làm tiền giả và hàng giả, buôn bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển và tẩy rửa tiền, tội phạm về công nghệ thông tin vv.. đang có chiều hướng gia tăng ở tất cả các quốc gia, các khu vực trên thế giới cả về mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra, hàng vạn người Việt Nam ra nước ngoài công tác, lao động, du lịch vv… cũng như rất nhiều người nước ngoài đến Việt Nam để đầu tư, hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch vv…

Trước tình hình đó, vấn đề đấu tranh với tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia khác, cũng như các vấn đề có liên quan đến quyền tài phán thuộc lãnh thổ quốc gia khác đang là vấn đề được các quốc gia quan tâm. Cuộc đấu tranh với tội phạm này, đòi hỏi phải có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình xử lý các vụ án hình sự đã xảy ra.

Về nguyên tắc, các cơ quan tiến hành tố tụng của quốc gia này chỉ có thể thực hiện các hoạt động tố tụng theo thẩm quyền (tống đạt giấy giấy tờ, hồ sơ, tài liệu; thu thập chứng cứ…) trong phạm vi lãnh thổ tài phán quốc gia của nước đó. Muốn thực hiện các hoạt động tố tụng này ở nước ngoài, cơ quan tư pháp đó phải nhận được sự chấp thuận cụ thể của nước nơi các hoạt động đó sẽ được thực hiện thông qua các hoạt động tương trợ tư pháp trên cơ sở các hiệp định, điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên hoặc trên cơ sở thực hiện nguyên tắc “Có đi có lại”.

Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự là một hoạt động trợ giúp hữu hiệu để giải quyết các vấn đề đó.

  1. KHÁI NIỆM VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ
  2. Khái niệm

Hiện nay, cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự. Trên cơ sở phạm vi các vấn đề tương trợ tư pháp thuộc lĩnh vực hình sự mà Việt Nam đã tham gia ký kết tại các hiệp định quốc tế (đa phương và song phương), từ công tác thực tiễn hợp tác pháp luật về hình sự giữa nước ta với các nước trên thế giới cũng như những chế định về tương trợ tư pháp hình sự được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật tương trợ tư pháp năm 2007 thì nội hàm về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự hiểu một cách đầy đủ toàn diện bao gồm 03 lĩnh vực, đó là tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.

Hiểu theo nghĩa hẹp, khái niệm tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự được hiểu là việc các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác nhau giúp đỡ, hỗ trợ, phối với hợp nhau thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trên cơ sở điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà các bên tham gia ký kết hoặc theo nguyên tắc có đi có lại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân các liên quan, thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước.

Hiểu theo nghĩa rộng, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự còn bao gồm hoạt động trợ giúp cho nhau trong việc đảm bảo được hưởng quy chế bảo hộ pháp lý công bằng, giải quyết xung đột pháp luật và xung đột quyền tài phán, trao đổi thông tin pháp luật trong quá trình thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự.

  1. Đặc điểm

Để làm rõ hơn về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, từ khái niệm nêu trên có thể rút ra một số một số đặc điểm của tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự như sau:

Thứ nhất, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự là hoạt động giúp đỡ, hỗ trợ nhau của của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một hoặc một số hành vi tố tụng hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật được áp dụng hoặc điều ước quốc tế, thông thường bao gồm các hành vi tố tụng hình sự riêng biệt do các bên thỏa thuân, trợ giúp cho nhau như: tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu; thu thập chứng cứ còn thiếu trong một vụ án cụ thể; dẫn độ người phạm tội ra làm chứng cho một phiên tòa vv.. chứ không phải thực hiện toàn bộ quy trình tố tụng hình sự.

Thứ hai, cơ sở pháp lý để thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự dựa trên các điều ước quốc tế  mà Việt Nam đã tham gia ký kết, pháp luật của Việt Nam và nước có liên quan quy định về tương trợ tư pháp hoặc nguyên tắc “có đi có lại” lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên  quy định trái với pháp luật Việt Nam thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế cụ thể đó. Áp dụng pháp luật của nước ngoài chỉ được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế cụ thể mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Thứ ba, Cơ quan có thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự do mỗi quốc gia quy định tại nội luật của quốc gia đó. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các cơ quan thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự bao gồm: Bộ Công an và các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và một số cơ quan có liên quan khác.

Thứ tư, mục đích của tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khi các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật của quốc gia này không thể thực hiện được do không thể vượt quá thẩm quyền tài phán quốc gia. Ngoài ra, hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự còn góp phần tăng cường, củng cố quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam với các các quốc gia trên thế giới.

  1. TỔNG QUAN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ
  2. Sơ lược quy định của pháp luật tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

Vấn đề hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp chỉ được hình thành từ những năm 1950 trở đi khi các nước xã hội chủ nghĩa thiết lập ngoại giao với nước ta, tuy nhiên vấn đề tương trợ tư pháp nói chung và trong lĩnh vực hình sự nói riêng chưa được đặt ra. Về pháp luật trong nước, ngoài các văn bản hướng dẫn về đường lối xét xử của Tòa án nhân dân tối cao đối với một số vụ án có yếu tố nước ngoài, nước ta chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh riêng các vấn đề về tương trợ tư pháp.

 Đến những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam với các nước được mở rộng trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, nhu cầu về tương trợ tư pháp được đặt ra. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên văn bản pháp luật thời kỳ này chỉ có Thông tư số 11/TATC ngày 12/7/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, trong đó có vấn đề ủy thác tư pháp nhưng còn hạn hẹp và chủ yếu là vấn đề hôn nhân. Thực tiễn giải quyết đối với các vụ án cụ thể có yêu cầu tương trợ tư pháp, các cơ quan tư pháp nước ta giải quyết trên cơ sở pháp luật Việt Nam kết hợp với yếu tố ngoại giao.

Sau khi hòa bình, thống nhất, những năm 1980 nước ta bắt đầu ký các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước cùng chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và một số điều ước quốc tế đa phương như: hiệp định tương trợ tư pháp với Liên Xô ngày 10/12/1981, Tiệp Khắc ngày 12/10/1982 (hiện nay Cộng hòa Séc và Cộng hòa Xlovakia kế thừa), Cu Ba ngày 22/3/1993, Hunggari ngày 18/01/1985, Bugari ngày 03/10/1986 vv…

Ngay từ giai đoạn này, cùng với việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, xác định tương trợ tư pháp là công tác quan trọng nên Nhà nước ta có sự quan tâm, các cơ quan có thẩm quyền có liên quan đã ban hành Thông tư liên ngành số 139/TTLN ngày 12/3/1984 giữa Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao về việc thi hành các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Các văn bản và các quy định tại các hiệp định tương trợ tư pháp nêu trên dần được pháp điển hóa và đến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, lần đầu tiên đã dành riêng Phần thứ tám gồm 02 chương (chương XXXVI và XXXVII) quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự bao gồm các quy định về các nguyên tắc hợp tác, thực hiện uỷ thác tư pháp, dẫn độ và chuyển giao hồ sơ, tài liệu và vật chứng của vụ án, thể hiện ở các điều luật: Điều 340, 341, 342, 343, 344, 345 và Điều 346.

Tuy nhiên, có thể nói các quy định tương trợ tư pháp về hình sự trong Thông tư 139/TTLN và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không nhiều, mới chỉ mang tính nguyên tắc, mà chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện các yêu cầu về tương trợ tư pháp; chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành trong xử lý, giải quyết những vấn đề thuộc các lĩnh vực về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, đặc biệt chưa có các quy định về phần tương trợ tư pháp liên quan đến chuyển giao người bị kết án tù giữa Việt Nam và các nước cho nên trong thời gian qua, việc thực hiện một số hoạt động tương trợ tư pháp đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp từ Việt Nam gửi ra nước ngoài cũng như từ nước ngoài gửi đến các cơ quan trong nước rất chậm được giải quyết do phải đi qua nhiều khâu, thiếu cơ chế phối hợp cụ thể. Việc dịch hồ sơ uỷ thác cũng gặp không ít khó khăn do chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm dịch thuật và kinh phí.

Mặt khác, hệ thống các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Việt Nam đang xem xét tham gia liên quan đến tương trợ tư pháp thường khá phức tạp, lại dựa trên các thông lệ quốc tế hoặc các Hiệp định, Luật mẫu của Liên hợp quốc. Do đó việc dẫn chiếu để áp dụng pháp luật trong nước giải quyết các vấn đề cụ thể gặp nhiều khó khăn.Thực tiễn giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp như ủy thác tư pháp về hình sự, các yêu cầu dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù chủ yếu dựa trên các Hiệp định về tương trợ tư pháp song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Tuy nhiên, số lượng Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước hiện nay còn rất hạn chế. Thủ tục giải quyết các yêu cầu về tương trợ tư pháp đối với các nước đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam được thực hiện trên cơ sở các quy định trong Hiệp định, tuy nhiên, để tiến hành đàm phán, ký kết với từng nước là cả một quá trình mất rất nhiều thời gian và tài chính, mặt khác nhiều nước chưa muốn ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn ngày càng đòi hỏi pháp luật phải có những điều chỉnh phù hợp, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về tương trợ tư pháp, ngày 21/12/2007 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua Luật Tương trợ tư pháp có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2008 gồm 7 chương với 72 điều, trong đó các quy định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự được quy định trên cơ sở kế thừa những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đồng thời có bổ sung, phát triển, quy định trên cả 03 lĩnh vực là tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù (Bộ luật tố tụng hình sự chưa có chế định về chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù).

Sự ra đời của Luật tương trợ tư pháp năm 2007, Nghị định số 92/2008/NP ngày 22/8/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tương trợ tư pháp đã thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh cải cách tư pháp và cải cách pháp luật, đất nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới và khu vực, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta nói chung, trong lĩnh vực hợp tác hình sự nói riêng, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Triển khai hướng dẫn thi hành luật tương trợ tư pháp nói chung và trong lĩnh vực hình sự nói riêng, các bộ ngành có liên quan đã ban hành được một số văn bản hướng dẫn về tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự; về lập dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo cho công tác tương trợ tư pháp, cụ thể:

– Thông tư số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22 tháng 02 năm 2013 về hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù.

– Thông tư số 02/2013/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BNG ngày 16 tháng 08 năm 2013 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Thông tư số 44/2012/BTC ngày 04/9/2012 quy định việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác tương trợ tư pháp.

   Trên bình diện pháp lý, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm có yếu tố nước ngoài nói riêng, nâng cao hiệu quả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

  1. Một số nội dung cơ bản của Luật tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

Luật tương trợ tư pháp gồm 7 chương với 72 điều và có hiệu lực từ ngày 01/7/2008, trong lĩnh vực hình sự gồm các nội dung cụ thể như sau:

  1. Về phạm vi điều chỉnh,Điều 1 Luật tương trợ tư pháp quy định phạm vi điều chỉnh bao gồm các nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp.

   b.Về đối tượng áp dụng của Luật, Điều 2 quy định đối tượng áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp với Việt Nam.

  1. Nguyên tắc tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

Với tính chất là một bộ phận của chính sách đối ngoại, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự luôn tuân thủ các nguyên tắc quan hệ quốc tế mang tính chất chung của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế theo khuôn khổ Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữu các quốc gia.

Ở Việt Nam, cụ thể hóa các nguyên tắc trên, thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại vì hòa bình, hữu nghị, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng ta khẳng định “Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ… theo nguyên tắc tôn trọng, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bình đẳng và cùng có lợi”. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, các nguyên tắc này đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại Điều 340 “Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự”.

Luật tương trợ tư pháp năm 2007 ra đời, tiếp tục kế thừa toàn bộ nội dung các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự, quy định tại Điều 4 Luật tương trợ tư pháp, bao gồm:

– Nguyên tắc tôn trọng, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc của nhau;

– Nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi;

– Nguyên tắc phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

– Nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam.

  1. Xác định ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

Điều 5 Luật tương trợ tư pháp quy định ngôn ngữ sử dụng để lập hồ sơ trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự được xác định như sau:

– Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài đã có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp là ngôn ngữ được quy định trong điều ước quốc tế đó.

– Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hồ sơ phải kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận.

Với việc quy định cả ba lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù là phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn pháp luật Việt Nam và các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam tham gia ký kết. Về từng lĩnh vực cụ thể, Luật tương trợ tư pháp đã quy định về trình tự, thủ tục thực hiện theo từng chương riêng như: Tương trợ tư pháp về hình sự tại Chương III; dẫn độ tại Chương IV; chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Chương V.

Về tương trợ tư pháp về hình sự, chương này quy định về phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự; hồ sơ uỷ thác tư pháp về hình sự; văn bản uỷ thác tư pháp về hình sự; yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự; từ chối hoặc hoãn thực hiện uỷ thác tư pháp về hình sự của nước ngoài; thủ tục uỷ thác tư pháp về hình sự cho nước ngoài; thủ tục tiếp nhận và xử lý uỷ thác tư pháp về hình sự của nước ngoài; tống đạt giấy triệu tập người làm chứng, người giám định; dẫn giải người đang chấp hành hình phạt tù để cung cấp chứng cứ; cung cấp thông tin; việc sử dụng thông tin, chứng cứ trong tương trợ tư pháp về hình sự; yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự, giao nộp hồ sơ, vật chứng của vụ án cho nước ngoài; xử lý yêu cầu của nước ngoài về truy cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam; thực hiện uỷ thác tư pháp của nước ngoài về điều tra đối với công dân nước ngoài tại Việt Nam; chi phí thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự.

Điều 17 của Luật tương trợ tư pháp quy định về phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự; triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ; truy cứu trách nhiệm hình sự; trao đổi thông tin; các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về hình sự. Thông qua hoạt động ủy thác tư pháp về hình sự, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ có đầy đủ chứng cứ, tài liệu cũng như thông tin đầy đủ hơn khi giải quyết một vụ án hình sự mà phạm vi thẩm quyền tài phán vượt khỏi quốc gia Việt Nam.

Tương trợ tư pháp về hình sự thuộc phạm vi điều chỉnh của công pháp quốc tế cho nên luật quy định nguyên tắc duy nhất là chi phí việc thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài do nước yêu cầu chi trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nguyên tắc này đảm bảo phù hợp với các quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước cũng như thông lệ quốc tế.

   Về hồ sơ, văn bản ủy thác tư pháp về hình sự, trình tự, thủ tục thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự được quy định cụ thể tại các Điều 18, 19, 20, 22, 23, 24, 25, 26, 28, 29 và Điều 30 của Luật tương trợ tư pháp.

Ngoài ra Luật cũng quy định một số trường hợp từ chối yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp tại Điều 21 nếu các yêu cầu đó không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp luật Việt Nam; yêu cầu đó gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia; liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết án, được tuyên không có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam; liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam; liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.  Ủy thác tư pháp về hình sự có thể bị hoãn thực hiện tại Việt Nam nếu việc thực hiện ủy thác tư pháp cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tại Việt Nam.

   Về vấn đề dẫn độ, chương này quy định các vấn đề về dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án; trường hợp bị dẫn độ; không truy cứu trách nhiệm hình sự, dẫn độ cho nước thứ ba; từ chối dẫn độ cho nước ngoài; hồ sơ yêu cầu dẫn độ; văn bản yêu cầu dẫn độ và tài liệu kèm theo; tiếp nhận yêu cầu dẫn độ; xem xét yêu cầu dẫn độ của nhiều nước đối với một người; quyết định dẫn độ; các biện pháp ngăn chặn để dẫn độ; thi hành quyết định dẫn độ; áp giải người bị dẫn độ; hoãn thi hành quyết định dẫn độ và dẫn độ tạm thời; dẫn độ lại; chuyển giao đồ vật, vật chứng liên quan đến vụ án; quá cảnh; chi phí về dẫn độ.

Điều 32 Luật tương trợ tư pháp quy định Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài dẫn độ cho Việt Nam người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án có hiệu lực pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án. Như vậy, dẫn độ là nhằm đảm bảo quốc gia yêu cầu dẫn độ thực hiện quyền tài phán của mình đối với người có hành vi phạm tội thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật hình sự của nước yêu cầu. Luật cũng chỉ rõ các trường hợp bị dẫn độ quy định tại Điều 33 như: Người có thể bị dẫn độ là người có hành vi phạm tội mà Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu quy định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất sáu tháng. Các hành vi phạm tội nêu trên không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, các yếu tố cấu thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước yêu cầu. Đối với trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ nước yêu cầu thì việc dẫn độ người phạm tội có thể được thực hiện nếu theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hành vi đó là hành vi phạm tội. Việc Luật tương trợ tư pháp quy định về thời hạn phạt tù từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất là sáu tháng là hoàn toàn phù hợp với Luật mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc cũng như thông lệ quốc tế.

   Về vấn đề chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, chương này quy định về các vấn đề như: Căn cứ chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; điều kiện tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; từ chối chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và tài liệu kèm theo; tiếp nhận yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; quyết định chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam cho người nước ngoài; thẩm quyền quyết định tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam; thi hành quyết định chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; tiếp tục chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam; áp giải người bị chuyển giao; chi phí về chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.

Điều 49 Luật Tương trợ tư pháp quy định: Người đang chấp hành hình phạt tù có thể được chuyển giao đến nước mà người đó mang quốc tịch hoặc đến nước khác đồng ý tiếp nhận chuyển giao để tiếp tục chấp hành hình phạt tù mà nước chuyển giao đã tuyên với người đó. Việc chuyển giao được thực hiện căn cứ vào điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao hoặc nước tiếp nhận. Trường hợp chưa có điều ước quốc tế liên quan đến việc chuyển giao thì việc chuyển giao được thực hiện theo thỏa thuận trực tiếp giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước liên quan trên cơ sở quy định của Luật tương trợ tư pháp và các quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Thực hiện chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù về bản chất nhằm thực hiện mục đích nhân đạo, do vậy, Luật cũng quy định một trong những điều kiện bắt buộc khi thực hiện chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù phải có sự đồng ý của ba bên gồm: sự đồng ý của nước chuyển giao, sự đồng ý của nước tiếp nhận và đặc biệt là phải có sự đồng ý của người được chuyển giao (Điều 50). Luật tương trợ tư pháp cũng đưa ra một số ngoại lệ về từ chối chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù của cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam khi có căn cứ cho rằng người bị chuyển giao có thể bị tra tấn, trả thù hoặc truy bức tại nước tiếp nhận chuyển giao hoặc việc chuyển giao có thể gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam. Việc quy định này là hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước của Liên Hiệp quốc về chống tra tấn và hành hạ năm 1984 mà Việt Nam đang xem xét để gia nhập.

III. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN VỀ HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ

  1. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự

1.1. Chức năng, nhiệm vụ tương trợ tư pháp hình sự

Luật tương trợ tư pháp ra đời và có hiệu lực có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho hoạt động tương trợ tư pháp của các cơ quan nhà nước Việt Nam trên cả 03 lĩnh vực về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù; đồng thời cũng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có liên quan trong thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp, trong đó khẳng định rõ vị trí, vai trò quan trọng của Tòa án nhân dân, xác định cụ thể thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong thực hoạt động hiện tương trợ tư pháp; xem xét, quyết định các vụ việc về dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Đồng thời cũng xác định trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao trong hoạt động tương trợ tư pháp;

Điều 68 Luật tương trợ tư pháp quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:

– Thực hiện ủy thác tư pháp của nước ngoài theo quy định của Luật này.

– Xem xét, quyết định dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù hoặc từ chối dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù theo quy định của Luật này.

– Tiến hành các hoạt động tương trợ tư pháp khác theo thẩm quyền.

– Báo cáo kết quả thực hiện tương trợ tư pháp cho Tòa án nhân dân tối cao.

Điều 63 Luật tương trợ tư pháp xác định Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm:

– Hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp thực hiện tương trợ tư pháp.

– Xem xét, quyết định các vụ việc về dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù theo thẩm quyền.

– Định kỳ sáu tháng và hằng năm thông báo với Bộ Tư pháp tình hình thực hiện tương trợ tư pháp thuộc thẩm quyền.

Trách nhiệm, thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao cũng được quy định cụ thể hóa tại Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 về hướng dẫn chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và một số cơ quan hữu quan khác trong một số hoạt động như: xây dựng pháp luật trong nước và hoạt động đàm phán, ký kết thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp; tổ chức các lớp bồi dưỡng pháp luật trong nước, điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động tương trợ tư pháp cho các cán bộ thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp vv…

2.2. Công tác phối hợp thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự

– Công tác phối hợp đàm phán, ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp: Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan chủ trì tiến hành xây dựng, đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp. Đến năm 2012, đã tham gia 05 đoàn đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự; 08 đoàn đàm phán, ký kết hiệp định về dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.

– Công tác phối hợp ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của pháp luật trong nước về tương trợ tư pháp: Tòa án nhân dân tối cao đã chủ động phối hợp với Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Luật tương trợ tư pháp về chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và chuyển giao tài liệu, chứng cứ để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hình sự. Trong năm 2013 Tòa án nhân dân tối cao đã tham gia phối hợp ký ban hành 02 văn bản hướng dẫn về hai lĩnh vực gồm:

Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 “Hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành hình phạt tù”.

Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BNG ngày 16/8/2013 “Hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự”.

 Ngoài ra, còn phối hợp với Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng các Thông tư liên tịch hướng dẫn một số quy định của Luật tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ.

            – Về thực hiện công tác sơ kết, tổng kết trong hoạt động quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp: Tòa án nhân dân tối cao cũng phối hợp với Bộ Tư pháp tiến hành sơ kết 03 năm thi hành Luật tương trợ tư pháp năm 2007; xây dựng Báo cáo công tác tương trợ tư pháp của Chính phủ trình Quốc Hội tại Kỳ họp Thứ tư Quốc hội khóa XIII (tháng 10/2012).

– Công tác tổ chức nhân sự: Tại Tòa án nhân dân tối cao Viện khoa học xét xử được giao là cơ quan đầu mối, tham mưu giúp Tòa án nhân dân tối cao trong hoạt động về xây dựng và hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật tương trợ tư pháp trong nước; tham gia đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ và tham gia các hoạt động phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ quy định trong Luật tương trợ tư pháp năm 2007. Năm 2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã thành lập Phòng nghiên cứu pháp luật quốc tế trực thuộc Viện khoa học xét xử. Phòng  được giao nhiệm vụ chuẩn bị các dự thảo văn bản của Tòa án nhân dân tối cao về hoạt động tương trợ tư pháp; đề xuất và tham gia các hoạt động phối hợp với Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ quy định trong Luật tương trợ tư pháp năm 2007 và tham gia một số đoàn đàm phán Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ.

            Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh hiện nay vẫn chưa được phép thành lập Phòng chuyên trách để thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp, mà chủ vẫn được giao cho cán bộ Tòa án thực hiện theo hình thức kiêm nhiệm.

  1. Thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự của Tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Từ trước đến nay, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao phát sinh chưa đáng kể yêu cầu cũng như được yêu cầu thực hiện việc ủy thác tư pháp về hình sự; xem xét, quyết định dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Thực tiễn, trong giai đoạn hiện nay hoạt động tương trợ tư pháp của các Tòa án nhân dân chủ yếu chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.

Đối với hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự chủ yếu do Bộ Công an và các cơ quan điều tra là cơ quan trực tiếp thực hiện phần lớn hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự;

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về kết quả thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù của ngành Tòa án nhân dân thực hiện từ năm 2008 kể từ khi Luật tương trợ tư pháp có hiệu lực đến hết tháng 7/2013 (Công văn số 113/TANDTC – HTQT ngày 18/7/2011 và Thông báo số 202/TANDTC-KHXX ngày 18/9/2013 của Tòa án nhân dân tối cao) thì hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại các Tòa án nhân dân chưa phát sinh hoặc phát sinh không đáng kể. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự không có bất kỳ Tòa án cấp tỉnh nào trong số 63 tỉnh, thành có yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự ra nước ngoài; đồng thời các Tòa án này cũng không nhận được yêu cầu nào về dẫn độ theo quy định của Luật tương trợ tư pháp năm 2007 và quy định của các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ.

Riêng vấn đề chuyển giao, tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù thì chỉ có 03 Tòa án cấp tỉnh thụ lý giải quyết, cụ thể:

– 01 trường hợp do Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam thụ lý giải quyết yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đề nghị quyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam về nước yêu cầu;

– 01 trường hợp do Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La thụ lý giải quyết yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài đề nghị chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù là công dân Việt nam đang chấp hành hình phạt tù tại Cộng hòa nhân dân Lào về Việt Nam để tiếp tục thi hành án.

– 01 trường hợp Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng ra quyết định tiếp nhận 04 người bị kết án tù tại Vương quốc Anh về Việt Nam tiếp tục chấp hành hình phạt tù theo quy định của hiệp định giữa nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai – len về chuyển giao người bị kết án phạt tù.

  1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân và trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

Tùy từng lĩnh vực mà Luật tương trợ tư pháp quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án nhân dân cho từng lĩnh vực: tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình hình phạt tù.

2.1. Tương trợ tư pháp về hình sự

Luật tương trợ tư pháp quy định theo hướng giao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự. Khoản 1 Điều 68 quy định: Tòa án nhân dân cấp tỉnh “Thực hiện ủy thác tư pháp của nước ngoài theo quy định của Luật này”.

Tương trợ tư pháp về hình sự được hiểu là hoạt động hợp tác giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nước ta với các cơ quan tương ứng của nước ngoài nhằm thực hiện yêu cầu trong giải quyết vụ án hình sự.

Tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện dưới hình thức “ủy thác tư pháp” về hình sự.

  1. Các vụ án hình sự cần thực hiện ủy thác tư pháp(ủy thác tư pháp ra)

Như trên đã nêu, trong giai đoạn hiện nay hoạt động ủy thác tư pháp của các Tòa án nhân dân chủ yếu chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, các Tòa án nhân dân chưa phát sinh yêu cầu cũng như được yêu cầu thực hiện việc ủy thác tư pháp về hình sự;

Khi phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử thì các Tòa án có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp trong các trường hợp theo quy định tại Điều 20 Luật tương trợ tư pháp như sau:

Cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau đây:

– Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang cư trú ở nước được yêu cầu;

– Triệu tập người làm chứng, người giám định đang ở nước được yêu cầu;

– Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ án hình sự tại Việt Nam;

– Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đang ở nước mà người đó mang quốc tịch;

– Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Khi thực hiện ủy thác tư pháp, Tòa án, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những quy định của điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tương trợ tư pháp và các văn bản pháp luật có liên quan. Trường hợp có mâu thuẫn giữa quy định của điều ước quốc tế có liên quan với quy định của pháp luật trong nước thì thực hiện theo quy định của định của điều ước quốc tế đó.

  1. Trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp về hình sự

Theo quy định tại Điều 22 Luật tương trợ tư pháp thì cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam khi có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự phải lập hồ sơ ủy thác tư pháp theo quy định tại Điều 18 và gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lại cho cơ quan đã lập hồ sơ và nêu rõ lý do.

Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuyển văn bản đó cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự.

Hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự phải có các văn bản theo đúng quy định tại khoản 1 Điều Điều 18 Luật tương trợ tư pháp, bao gồm:

– Văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự;

– Văn bản ủy thác tư pháp về hình sự quy định tại Điều 19 của Luật này.

Hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự được lập thành ba bộ theo quy định của Luật này và phù hợp với pháp luật của nước được yêu cầu.

Văn bản ủy thác tư pháp về hình sự phải có các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật tương trợ tư pháp, bao gồm:

– Ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản;

– Tên, địa chỉ cơ quan ủy thác tư pháp;

– Tên, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan được ủy thác tư pháp;

– Họ, tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của cá nhân; tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến ủy thác tư pháp về hình sự;

– Nội dung công việc được ủy thác tư pháp về hình sự phải nêu rõ mục đích ủy thác; tóm tắt nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, trích dẫn điều luật và hình phạt có thể được áp dụng; tiến độ điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn thực hiện ủy thác.

Ngoài những nội dung nêu trên, khoản 2 Điều 19 quy định tuỳ từng trường hợp cụ thể, theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài, văn bản ủy thác tư pháp về hình sự có thể có các nội dung sau đây:

– Đặc điểm nhận dạng, quốc tịch và nơi ở của đối tượng trong vụ án hình sự hoặc những người có thông tin liên quan đến vụ án đó;

– Vấn đề cần thẩm vấn, câu hỏi đặt ra, tài liệu, hồ sơ hoặc vật chứng được đưa ra và nếu có thể thì mô tả đặc điểm, hình dạng người được yêu cầu xuất trình tài liệu, hồ sơ, vật chứng đối với ủy thác thu thập chứng cứ;

– Nội dung công việc, câu hỏi, yêu cầu đối với người làm chứng, người giám định được triệu tập;

– Mô tả về tài sản và nơi có tài sản cần tìm; căn cứ để xác định tài sản do phạm tội mà có đang có tại nước yêu cầu và có thể thuộc quyền tài phán của nước yêu cầu; việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án đối với ủy thác về khám xét, thu giữ hoặc truy tìm, tịch thu tài sản do phạm tội mà có;

– Biện pháp cần áp dụng đối với ủy thác tư pháp về hình sự có thể dẫn đến việc phát hiện hoặc thu hồi tài sản do phạm tội mà có;

– Yêu cầu hoặc thủ tục của nước yêu cầu để bảo đảm thực hiện có hiệu quả ủy thác tư pháp, cách thức hoặc hình thức cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu, đồ vật;

– Yêu cầu về bảo mật ủy thác tư pháp;

– Mục đích, dự định thời gian và lịch trình chuyến đi trong trường hợp người có thẩm quyền của nước yêu cầu cần phải đến lãnh thổ của nước được yêu cầu vì mục đích liên quan đến ủy thác tư pháp;

– Bản án, quyết định hình sự của Tòa án và tài liệu, chứng cứ hoặc thông tin khác cần thiết cho việc thực hiện ủy thác tư pháp.

Trường hợp thông tin nêu trong văn bản ủy thác tư pháp về hình sự không đủ để thực hiện ủy thác thì cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu còn có thể đề nghị bằng văn bản với nước yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung và ấn định thời hạn cụ thể trả lời kết quả bổ sung.

Như vậy, trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp về hình sự theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đối với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài và cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện theo quy trình sau:

– Trường hợp có điều ước quốc tế tương trợ tư pháp về hình sự:

Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam –  Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam –   Cơ quan trung ương của nước được yêu cầu theo quy định của hiệp định (điều ước quốc tế)     Cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu thực hiện

– Trường hợp không có điều ước quốc tế tương trợ tư pháp về hình sự:

Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam    Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam      Bộ Ngoại giao Việt Nam        Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài      Bộ Ngoại giao nước được yêu cầu     Cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu thực hiện.

Nhìn chung, hiện nay các cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành được văn bản hướng phần tương trợ tư pháp về hình sự theo quy định của Luật tương trợ tư pháp, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền có liên quan, vì vậy thực tiễn công tác ủy thác tư pháp về hình sự thời gian qua có những vướng mắc, các yêu cầu gửi ra nước ngoài cũng như từ nước ngoài gửi đến các cơ quan trong nước rất chậm và phải đi qua nhiều khâu, chưa có cơ chế phối hợp.

2.2. Dẫn độ

Luật tương trợ tư pháp quy định giao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị yêu cầu dẫn độ đang cư trú, đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc chấp hành hình phạt tù thực hiện xem xét, quyết định dẫn độ.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 32 Luật tương trợ tư pháp thì: Dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh thổ nước mình để nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó.

Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam có thể:

– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài dẫn độ cho Việt Nam người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án;

– Thực hiện việc dẫn độ người nước ngoài đang ở trên lãnh thổ Việt Nam có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án.

Mục đích của việc dẫn độ nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó

  1. Các trường hợp dẫn độ

Điều 33 Luật tương trợ tư pháp quy định cụ thể các trường hợp bị dẫn độ, như sau:

– Người có thể bị dẫn độ theo quy định của Luật này là người có hành vi phạm tội mà Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu quy định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất sáu tháng.

– Hành vi phạm tội của người quy định tại khoản 1 Điều này không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, các yếu tố cấu thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước yêu cầu.

– Trường hợp hành vi phạm tội của người quy định tại khoản 1 Điều này xảy ra ngoài lãnh thổ của nước yêu cầu thì việc dẫn độ người phạm tội có thể được thực hiện nếu theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hành vi đó là hành vi phạm tội.

Như vậy, điều kiện để một người bị dẫn độ phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:

+ Có hành vi phạm tội được Bộ luật hình sự Việt Nam quy định và pháp luật hình sự của nước yêu cầu.

+ Loại tội được quy định tại Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu phải có thời hạn của hình phạt từ 01 năm tù trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất sáu tháng.

Luật cũng quy định việc không truy cứu trách nhiệm hình sự, dẫn độ cho nước thứ ba (Điều 34) và các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam từ chối yêu cầu dẫn độ (Điều 35).

  1. Trình tự, thủ tục xem xét quyết định dẫn độ của Tòa án nhân dân

   Bộ Công an là cơ quan đầu mối trong việc tiếp nhận yêu cầu về dẫn độ.

Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu dẫn độ và tài liệu kèm theo, Bộ Công an vào sổ hồ sơ dẫn độ và kiểm tra hồ sơ theo quy định tại Điều 36 của Luật này. Bộ Công an có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ cung cấp thông tin bổ sung hồ sơ. Sau sáu mươi ngày, kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu bổ sung thông tin mà không nhận được thông tin bổ sung thì Bộ Công an gửi trả hồ sơ cho nước yêu cầu dẫn độ và nêu rõ lý do. Trường hợp hồ sơ hợp lệ thì Bộ Công an chuyển ngay cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền hai bộ hồ sơ để xem xét, quyết định.

Trong trường hợp Bộ Công an nhận được văn bản của hai hoặc nhiều nước yêu cầu dẫn độ một người về cùng một tội phạm hoặc nhiều tội phạm khác nhau thì Bộ Công an chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định đáp ứng yêu cầu dẫn độ cho một trong các nước yêu cầu và chuyển hồ sơ yêu cầu dẫn độ cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định dẫn độ. Khi xem xét yêu cầu dẫn độ trong trường hợp này, ngoài các quy định của pháp luật, còn phải xem xét các yếu tố liên quan sau đây: Quốc tịch hữu hiệu và nơi thường trú cuối cùng của người bị yêu cầu dẫn độ; Tính hợp pháp và mức độ phù hợp của yêu cầu dẫn độ; Thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm; Lợi ích riêng của các nước yêu cầu; Mức độ nghiêm trọng của tội phạm; Quốc tịch của người bị hại; Khả năng dẫn độ tiếp theo giữa các nước yêu cầu dẫn độ; Ngày đưa ra yêu cầu dẫn độ; Các yếu tố khác có liên quan.

Thụ lý và xem xét yêu cầu dẫn độ: Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu dẫn độ do Bộ Công an chuyển đến, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị yêu cầu dẫn độ đang cư trú, đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc chấp hành hình phạt tù phải thụ lý và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn chuẩn bị xem xét yêu cầu dẫn độ, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài làm rõ những điểm chưa rõ trong hồ sơ yêu cầu dẫn độ.

Lưu ý: Tòa án nhân dân cấp tỉnh không được giao thẩm quyền trực tiếp gửi cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để yêu cầu làm rõ những điểm chưa rõ trong hồ sơ, mà phải gửi thông qua Bộ Công an.

Ra quyết định: Trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh ra một trong các quyết định sau đây:

– Xem xét yêu cầu dẫn độ khi có đủ các điều kiện theo quy định của Luật này;

– Đình chỉ việc xem xét yêu cầu dẫn độ và trả hồ sơ cho Bộ Công an trong trường hợp không thuộc thẩm quyền hoặc bên nước ngoài rút yêu cầu dẫn độ hoặc người bị yêu cầu dẫn độ đã rời khỏi Việt Nam hoặc vì lý do khác mà việc xem xét không thể tiến hành được.

Trường hợp Tòa án ra quyết định xem xét yêu cầu dẫn độ thì Tòa án xem xét trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định và chuyển ngay một bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Việc xem xét yêu cầu dẫn độ được tiến hành tại phiên họp do Hội đồng gồm ba thẩm phán trong đó có một thẩm phán làm chủ tọa và có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Hội đồng xem xét yêu cầu dẫn độ làm việc theo trình tự sau đây:

– Một thành viên của Hội đồng trình bày nội dung hồ sơ của nước yêu cầu dẫn độ và nêu ý kiến về cơ sở pháp lý của việc dẫn độ;

– Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc dẫn độ;

– Luật sư hoặc người đại diện hợp pháp của người bị yêu cầu dẫn độ trình bày ý kiến, nếu có;

– Người bị yêu cầu dẫn độ trình bày ý kiến;

– Căn cứ vào các quy định của Luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số việc dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ.

Chậm nhất là mười ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ, Tòa án nhân dân cấp tỉnh gửi quyết định cho người bị yêu cầu dẫn độ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Bộ Công an để thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp không đồng ý với quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Người bị yêu cầu dẫn độ có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Tòa án nhân dân cấp tỉnh ra quyết định. Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gửi hồ sơ và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án nhân dân tối cao trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

   Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ dẫn độ và kháng cáo, kháng nghị, Tòa án nhân dân tối cao mở phiên họp xem xét quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị; Hội đồng xem xét phúc thẩm quyết định về việc dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ. Trình tự xem xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định dẫn độ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 40.

Quyết định dẫn độ có hiệu lực pháp luật bao gồm:

– Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị;

– Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.

Thi hành quyết định dẫn độ; dẫn độ lại

Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày quyết định của Tòa án nhân dân về dẫn độ có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền ra quyết định thi hành quyết định dẫn độ. Quyết định thi hành quyết định dẫn độ phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Bộ Công an, nước yêu cầu dẫn độ và người bị dẫn độ để thi hành.

Trường hợp người đã bị dẫn độ trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt ở nước ngoài và quay trở lại Việt Nam thì nước yêu cầu dẫn độ có thể đưa ra yêu cầu dẫn độ lại người đó kèm theo các tài liệu quy định tại Điều 36 và Điều 37; trong trường hợp này, Tòa án nhân dân cấp tỉnh không tiến hành lại thủ tục quyết định dẫn độ theo quy định tại Điều 40 của Luật này; Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã quyết định dẫn độ trước đây quyết định dẫn độ lại đối với người đó. Việc áp giải người bị dẫn độ lại được thực hiện theo quy định tại Điều 43 của Luật này.

2.3. Chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù

Luật tương trợ tư pháp đã giao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của người đang chấp hành hình phạt tù ở nước chuyên giao hoặc nơi người nước ngoài đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam (khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2013/BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù).

Theo quy định của Luật tương trợ tư pháp thì Chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chuyển giao người nước ngoài phạm tội đã bị Toà án của quốc gia đó kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật về nước mà người bị kết án là công dân hoặc một nước khác đồng ý tiếp nhận để tiếp tục thi hành bản án để tiếp tục thi hành án.

Thông thường, mục đích của việc chuyển giao xuất phát từ yếu tố nhân đạo, nhằm tạo điều kiện cho người bị kết án được chấp hành hình phạt tù tại nước mà người đó là công dân với sự thuận lợi về tập quán, văn hóa, ngôn ngữ… Các vấn đề về vật chất và tinh thần như môi trường xã hội, điều kiện sống, điều kiện thăm nom, động viên của người thân và bạn bè,… làm cho họ tích cực cải tạo, sửa chữa sai lầm.

Cần phân biệt giữa chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù với trường hợp dẫn độ. Việc chuyển giao người chấp hành hình phạt tù chủ yếu xuất phát từ mục đích nhân đạo và điều kiện bắt buộc phải có sự nhất trí của cả ba bên là người đang chấp hành hình phạt tù, nước có yêu cầu và nước tiếp nhận; còn dẫn độ thể hiện chủ quyền quốc gia và không đặt ra yêu cầu phải có sự đồng ý của người đang chấp hành hình phạt tù.

Cơ sở pháp lý của việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù là điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên khi có yêu cầu của người đang chấp hành hình phạt tù hoặc yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao hoặc nước tiếp nhận.

Trường hợp chưa có điều ước quốc tế liên quan đến việc chuyển giao thì việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được thực hiện theo thoả thuận trực tiếp giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước liên quan trên cơ sở quy định của Luật tương trợ tư pháp và các quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế (theo nguyên tắc có đi có lại). Trình tự, thủ tục thực hiện nguyên tắc có đi có lại theo đúng quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2013/BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013.

  1. Điều kiện tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù

Điều 50 Luật Tương trợ tư pháp và Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/2013/BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù đã quy định cụ thể về điều kiện tiếp nhận, chuyển giao theo hai trường hợp như sau:

Trường hợp thứ nhấtNgười đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài có thể được tiếp nhận về Việt Nam để tiếp tục thi hành hình phạt tù khi có đủ các điều kiện sau:

– Là công dân Việt Nam;

– Có nơi thường trú cuối cùng ở Việt Nam;

– Hành vi phạm tội mà người đó bị kết án ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam;

– Vào thời điểm tiếp nhận yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành án phạt tù phải còn ít nhất là 01 (một) năm; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này còn ít nhất là 06 (sáu) tháng;

– Bản án đối với người được đề nghị chuyển giao về Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và không còn thủ tục tố tụng nào đối với người đó tại nước chuyển giao;

– Nước chuyển giao và người bị kết án đều đồng ý với việc chuyển giao. Trong trường hợp người bị kết án phạt tù là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì phải có sự đồng ý của người đại diện hợp pháp của người đó;

– Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam có quyết định đồng ý tiếp nhận đã có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp thứ hai: Người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam có thể chuyển giao cho nước ngoài để thi hành hình phạt tù  khi có đủ các điều kiện sau đây:

 – Là công dân của nước tiếp nhận hoặc là người được phép cư trú không thời hạn hoặc có người thân thích tại nước tiếp nhận chuyển giao;

– Có đủ các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e, g khoản 1 Điều 50 Luật tương trợ tư pháp và đã thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản và các trách nhiệm pháp lý khác trong bản án;

– Có sự đồng ý của nước tiếp nhận chuyển giao.

  1. Trình tự, thủ tục xem xét quyết định tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù của Tòa án nhân dân

b1. Trình tự, thủ tục tiếp nhận

Trình tự, thủ tục tiếp nhận công dân Việt Nam đang chấp hành án phạt tù tại nước ngoài về Việt Nam phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 54, 55 Luật tương trợ tư pháp và Điều 9 tư liên tịch số 01/2013/BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 như sau:

Công dân Việt Nam phạm tội và bị kết án phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn tại nước ngoài có nguyện vọng được chuyển giao về Việt Nam để tiếp tục chấp hành phần hình phạt còn lại thì có thể làm đơn (hoặc thông qua người đại diện hợp pháp) trình bày nguyện vọng đó với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Bộ Công an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cơ quan đại diện Việt Nam.

Trong thời hạn 10 (mười) ngày kể từ ngày nhận được đơn xin được chuyển giao của người đang chấp hành án phạt tù, Cơ quan đại diện Việt Nam chuyển đơn, hồ sơ cho Bộ Công an để vào sổ hồ sơ.

Hồ sơ được lập theo đúng quy định tại Điều 52, 53 Luật tương trợ tư pháp

Trong thời hạn 20 (hai mươi) ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu tiếp nhận chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, Bộ Công an vào sổ hồ sơ và kiểm tra hồ sơ theo quy định tại các điều 52 và 53 Luật tương trợ tư pháp. Bộ Công an có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao cung cấp thông tin bổ sung vào hồ sơ. Sau 60 (sáu mươi) ngày kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu bổ sung thông tin mà không nhận được thông tin bổ sung thì Bộ Công an gửi trả hồ sơ cho nước chuyển giao và nêu rõ lý do, đồng thời gửi cho người đang chấp hành án phạt tù có yêu cầu tiếp nhận về Việt Nam (hoặc người đại diện hợp pháp của người đó) biết. Trường hợp hồ sơ hợp lệ, Bộ Công an chuyển ngay cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền 02 (hai) bộ hồ sơ để xem xét, quyết định có tiếp nhận chuyển giao về Việt Nam hay không.

Thụ lý và xem xét

Trong thời hạn 10 (mười) ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ yêu cầu tiếp nhận do Bộ Công an chuyển đến, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người được đề nghị chuyển giao về Việt Nam có nơi cứ trú cuối cùng phải thụ lý và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn chuẩn bị xem xét yêu cầu tiếp nhận, Tòa án nhân dân có thẩm quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài làm rõ những điểm chưa rõ trong hồ sơ yêu cầu tiếp nhận. Văn bản yêu cầu và văn bản trả lời được gửi thông qua Bộ Công an.

Được coi là đủ hồ sơ khi có đầy đủ các văn bản, tài liệu theo quy định tại Điều 52 và 53 Luật tương trợ tư pháp.

Ra quyết định

Trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày, kể từ ngày thụ lý, tùy từng trường hợp mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh ra một trong các quyết định sau:

– Xem xét yêu cầu tiếp nhận khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 50 Luật tuơng trợ tư pháp và Điều 6 liên tịch số 01/2013/BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013;

– Đình chỉ việc xem xét yêu cầu tiếp nhận và trả hồ sơ cho Bộ Công an trong trường hợp không thuộc thẩm quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc người yêu cầu rút yêu cầu chuyển giao hoặc vì các lý do khác mà việc xem xét không thể tiến hành được.

Trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày, kể từ ngày ra quyết định xem xét yêu cầu tiếp nhận, Tòa án có thẩm quyền xem xét yêu cầu tiếp nhận và chuyển ngay một bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Việc xem xét yêu cầu tiếp nhận đuợc tiến hành tại phiên họp do Hội đồng gồm 03 (ba) thẩm phán trong đó có 01 (một) thẩm phán làm chủ tọa và có sự tham gia của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Hội đồng xem xét yêu cầu tiếp nhận làm việc theo trình tự quy định tại Khoản 4 Điều 55 Luật tương trợ tư pháp.

Chậm nhất là 10 (mười) ngày, kể từ ngày ra quyết định tiếp nhận hoặc từ chối tiếp nhận, Tòa án nhân dân cấp tỉnh gửi quyết định cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét việc có kháng nghị hay không; đồng thời gửi cho Bộ Công an để thông báo cho phía nước ngoài biết.

Thi hành quyết định

Trường hợp quyết định đồng ý tiếp nhận, trong thời hạn năm (05) ngày, kể từ ngày nhận được quyết định tiếp nhận có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án đã ra quyết định sơ thẩm ra các quyết định sau đây:

– Quyết định thi hành quyết định tiếp nhận;

– Quyết định tiếp tục thi hành án phạt tù tại Việt Nam;

– Quyết định chuyển đổi hình phạt theo quy định tại Điều 19 Thông tư Thông tư số 01/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 trong trường hợp tính chất và thời hạn của hình phạt nước chuyển giao đã tuyên không tương thích với quy định của pháp luật Việt Nam.

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Tòa án nhân dân cấp tỉnh ra quyết định. Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gửi hồ sơ và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án nhân dân tối cao trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

 Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu tiếp nhận và kháng cáo, kháng nghị, Tòa án nhân dân tối cao mở phiên họp xem xét quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị; Hội đồng xem xét phúc thẩm quyết định về việc tiếp nhận hoặc từ chối tiếp nhận. Trình tự xem xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tiếp nhận hoặc từ chối tiếp nhận của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được thực hiện như trình tự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 55 Luật tương trợ tư pháp.

b2. Chuyển giao người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù trên lãnh thổ Việt Nam ra nước ngoài

Nhằm đảm bảo quyền được yêu cầu chuyển giao của người nước ngoài đang chấp hành hình phạt tù trên lãnh thổ Việt Nam, Điều 12 Thông tư số 01/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 đã quy định trách nhiệm cụ thể của Tòa án nhân dân khi tuyên án và của Bộ Công an trong công tác quản lý các cơ sở giam giữ về việc thông báo cho cho bị cáo, người đang chấp hành hình phạt tù là các đối tượng là người nước ngoài biết về quyền được yêu cầu chuyển giao như sau:

Khi tuyên bản án và hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm có trách nhiệm thông báo cho bị cáo là các đối tượng nêu tại điểm a Khoản 2 Điều 50 Luật tương trợ tư pháp biết về quyền được yêu cầu chuyển giao.

Hàng năm, Bộ Công an thực hiện việc thông báo cho người đang chấp hành án phạt tù là người nước ngoài đang chấp hành án tại các cơ sở giam giữ do Bộ Công an quản lý biết về quyền được yêu cầu chuyển giao.

Hồ sơ yêu cầu chuyển giao và tài liệu kèm theo được quy định tại các điều 52 và 53 của Luật tương trợ tư pháp và các quy định trong điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam và phía nước ngoài là thành viên.

Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định chuyển giao, từ chối chuyển giao cho phía nước ngoài thực hiện theo quy định tại các điều 50, 51 và 55 Luật tương trợ tư pháp và các quy định khác trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên và quy định tại Thông tư số 01/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013.

  1. Một số hạn chế và tồn tại

– Thời gian thực hiện các ủy thác tư pháp trong cả 03 lĩnh vực hình sự, dẫn độ và chuyển giao người chấp hành hình phạt tù còn dài (nhiều trường hợp kéo dài hàng năm) không đáp ứng yêu cầu về thời gian xét xử trong nước, làm ảnh hưởng đến quá trình tố tụng. Kết quả ủy thác tư pháp về các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn hạn chế đã dẫn đến các tác động tiêu cực về kinh tế, xã hội.

– Quy định pháp luật hiện hành trong nước về tương trợ tư pháp cũng vẫn còn những khoảng trống, chưa đồng bộ làm cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan còn gặp lúng túng trong quá trình thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp. Pháp luật Tố tụng hình sự chưa tính hết yếu tố đặc thù của các vụ việc có yếu tố nước ngoài cần ủy thác tư pháp, nên hiện nay quy trình, thời hạn tố tụng vẫn được áp dụng chung như với các vụ việc trong nước trong khi yêu cầu tương trợ tư pháp thường làm thời gian tố tụng kéo dài hơn.

– Các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành chỉ viện dẫn chung là áp dụng các quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp trong khi đó Luật tương trợ tư pháp lại chưa có các quy định về những nội dung đặc thù cho hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực này hoặc quy định của pháp luật hiện hành về tương trợ tư pháp còn một số khoảng trống so với yêu cầu thực tế nên dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở pháp lý, gây khó khăn cho thực tế áp dụng giải quyết các vụ việc cụ thể.

– Sự khác nhau trong quy định pháp luật của các nước về tương trợ tư pháp cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp trong cả 3 lĩnh vực (cụ thể như pháp luật Việt Nam hiện nay có quy định hình phạt tử hình trong khi đó một số quốc gia không quy định hình phạt tử hình. Vì vậy, trong thực tiễn khi tiến hành tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, các quốc gia này đều đề nghị Việt Nam cam kết không tuyên tử hình hoặc tuyên phạt nhưng không thi hành đối với người phạm tội.

– Các Tòa án nhân dân phát sinh chưa đáng kể yêu cầu và được yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự; xem xét quyết định dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù nên hiện nay trong cơ cấu bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa Phúc thẩm chưa có  bộ phận chuyên trách để giúp Tòa án thực hiện hoạt động ủy thác tư pháp về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Công tác hỗ trợ Thẩm phán trong việc chuẩn bị tài liệu, giấy tờ cho hoạt động thực hiện  chủ yếu được giao cho Văn phòng Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án kiêm nhiệm thực hiện.

– Ngoài ra, kể từ khi Luật tương trợ tư pháp có hiệu lực đến nay Tòa án nhân dân tối cao chưa ban hành văn bản nào hướng dẫn các Tòa án địa phương xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến công tác tương trợ tư pháp nói chung và trong lĩnh vực hình sự nói riêng.

Phụ lục 1:

DANH MỤC CÁC HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LĨNH VỰC HÌNH SỰ GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC

(Tính đến tháng 8/2012)

 

DANH MỤC HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP

Tên nước Tên điều ước Ngày ký Ngày có hiệu lực
Ấn Độ Hiệp định về tương trợ tư pháp về hình sự 8/10/2007 11/17/2008
An-giê-ri Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự 14/4/2010 Chưa có hiệu lực
Anh
(EN – VN)
Hiệp định về tương trợ tư pháp về hình sự 13/1/2009 30/9/2009
Ba Lan Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự 22/3/1993 18/1/1995
Bê-la-rút
(RU – VN)
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự 14/9/2000 18/10/2001
Bun-ga-ri Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự 3/10/1986 Đang có hiệu lực
Cu Ba Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự 30/11/1984 Đang có hiệu lực
Hàn Quốc Hiệp định về tương trợ tư pháp về hình sự 15/9/2003 19/4/2005
Hung ga ri Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự 18/1/1985 Đang có hiệu lực
Lào Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự 6/7/1998 19/2/2000
Liên Xô (Liên bang Nga thừa kế) Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự 10/12/1981 10/10/1982
Mông Cổ Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự 17/4/2000 13/6/2002
Nga

(RU – VN)

Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự 25/8/1998 27/8/2012
Nga Nghị định thư bổ sung Hiệp định tương trợ tư pháp về và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự 23/4/2003 27/7/2012
Tiệp Khắc

(Séc và Xlô-va-ki-a kế thừa)

Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và hình sự 12/10/1982 16/4/1984
Triều Tiên Hiệp định về tương trợ tư pháp trong các vấn đề dân sự và hình sự 4/5/2002 24/2/2004
Trung Quốc Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự 19/10/1998 25/12/1999
Ucraina Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự 6/4/2000 19/8/2002
ASEAN Hiệp định ASEAN về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự 29/11/2004 20/9/2005 (chỉ có hiệu lực giữa các nước đã phê chuẩn)

DANH MỤC HIỆP ĐỊNH DẪN ĐỘ

Tên nước Tên điều ước Ngày ký Ngày có hiệu lực
An-giê-ri Hiệp định về dẫn độ 14/4/2010 Chưa có hiệu lực
Hàn Quốc
(EN – VN)
Hiệp định về dẫn độ 15/9/2003 19/4/2005

 

DANH MỤC HIỆP ĐỊNH CHUYỂN GIAO

NGƯỜI BỊ KẾT ÁN

Tên nước Tên điều ước Ngày ký Ngày có hiệu lực
Hàn Quốc
(EN – VN)
Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù 29/5/2009 30/8/2010
Ô-xtơ-rây-li-a
(EN – VN)
Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù 13/10/2008 11/12/2009
Thái Lan
(EN – VN)
Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù và hợp tác thi hành án hình sự 3/3/2010 19/7/2010
Anh Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù 12/9/2008 20/09/2009

Nguồn: Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao Việt nam

Phụ lục 2:

TÌNH HÌNH XÂY DỰNG, BAN HÀNH CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH LUẬT TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN LĨNH VỰC HÌNH SỰ

Stt Tên văn bản Cơ quan chủ trì Cơ quan phối hợp Thời gian có hiệu lực
1 Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tương trợ tư pháp Bộ Công an Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Năm 2008
2 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC về hướng việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành hình phạt tù Bộ Công an Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao 15/4/2013
3 Thông tư liên tịch hướng dẫn một số quy định của Luật tương trợ tư pháp về dẫn độ Bộ Công an Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Đang soạn thảo
4 Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT–VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BNG hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ vật chứng của các vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao 01/11/2013
5 Thông tư 144/2012/TT-BTC ngày 04/9/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác tương trợ tư pháp Bộ Tài chính Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an 20/10/2012
6 Thông tư quy định về việc đề xuất đàm phán, ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong Công an nhân dân Bộ Công an Đã hoàn thành
7 Thông tư quy định về quan hệ phối hợp trong lực lượng Công an nhân dân trong thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù Bộ Công an Đã hoàn thành

Nguồn: Bộ Tư pháp Việt Nam

PHẦN 2: PHẦN CHUYÊN SÂU

—————

 

BÀI 11:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÉT XỬ CÁC TỘI

XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA          

 

  1. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA VÀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC XÉT XỬ LOẠI TỘI NÀY

Các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Chương XI – Chương đầu tiên ở phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự 1999 (BLHS), gồm 14 điều, từ Điều 78 đến Điều 91 quy định về 14 tội phạm cụ thể và Điều 92 về hình phạt bổ sung cho tất cả các tội phạm trong chương này.

  1. Về cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm an ninh quốc gia
  2. a) Do tầm quan trọng của khách thể và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm này gây ra thường rất lớn (nếu xảy ra) và khó xác định, nên về cấu thành tội phạm cơ bản của các tội phạm trong chương này phần lớn chỉ quy định về một dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm, đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tức là tội phạm đó có cấu thành hình thức.

– Các tội có cấu thành hình thức trong chương này gồm: tội Phản bội Tổ quốc, Điều 78; tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 79; tội Gián điệp, Điều 80; tội Xâm phạm an ninh lãnh thổ, Điều 81; tội Bạo loạn, Điều 82; tội Phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội, Điều 86; tội Phá hoại chính sách đoàn kết, Điều 87; tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Điều 88; tội Phá rối an ninh, Điều 89; tội Chống phá trại giam, Điều 90; tội Trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, Điều 91.

– Có 3 tội có cấu thành vật chất, gồm: tội Hoạt động phỉ, Điều 83; tội Khủng bố nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 84; tội Phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Điều 85;

  1. b)Nhiềucấu thành tội phạm không cấu trúc riêng thành cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ như ở nhiều cấu thành tội phạm thông thường khác trong BLHS:

– Có 8 cấu thành tội phạm không cấu trúc cấu thành tăng nặng thành một cấu thành riêng mà đồng thời vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng, đó là các tội:

* Tội Phản bội Tổ quốc, Điều 78: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Gián điệp, Điều 80: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 và khoản 3 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Khủng bố nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 84: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 và khoản 3 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Điều 85: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội, Điều 86: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Phá hoại chính sách đoàn kết, Điều 87: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Phá rối an ninh, Điều 89: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 là cấu thành giảm nhẹ.

* Tội Chống phá trại giam, Điều 90: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành tăng nặng; khoản 2 là cấu thành giảm nhẹ.

– Có 2 tội có cấu thành cơ bản đồng thời là cấu thành giảm nhẹ và cấu thành tăng nặng, không cấu trúc cấu thành giảm nhẹ thành một khoản riêng:

* Tội Tuyên truyền chống Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Điều 88: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành giảm nhẹ; khoản 2 là cấu thành tăng nặng.

* Tội Trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, Điều 91: khoản 1 vừa là cấu thành cơ bản, vừa là cấu thành giảm nhẹ; khoản 2 và khoản 3 là cấu thành tăng nặng;

– Có 4 tội trong cấu thành cơ bản chỉ quy định về hành vi, không quy định chế tài, đó là các tội: tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, Điều 79; tội Xâm phạm an ninh lãnh thổ, Điều 81; tội Bạo loạn, Điều 82; tội Hoạt động phỉ, Điều 83;

  1. c)Về khách thể:

– Khách thể chung của các tội xâm phạm an ninh quốc gia là sự vững mạnh của chính quyền nhân dân; khách thể này có tầm quan trọng đặc biệt, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội khác (xem Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND năm 2004, trang 258).

– Trong từng tội phạm cụ thể, khách thể trực tiếp có những đặc tính khác nhau, nhưng vẫn thuộc nội hàm của khách thể chung.

  1. d)Về mặt chủ quan:

– Trong tất cả các cấu thành của các tội xâm phạm an ninh quốc gia, ý thức của người phạm tội là chống chính quyền nhân dân, mong muốn lật đổ chính quyền hoặc làm suy yếu chính quyền, đây là dấu hiệu bắt buộc.

– Động cơ của người phạm tội có thể do vụ lợi, bất mãn chế độ, bất đồng quan điểm chính trị, hận thù giai cấp… Tuy nhiên, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của các tội này.

– Lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp, không có lỗi cố ý gián tiếp.

  1. Thực tiễn xét xử loại tội phạm nàycó một số ý kiến khác nhau về việc có áp dụng hay không một số chế định làm giảm nhẹ hoặc tăng nặng hình phạt đối với bị cáo; trong đó có ý kiến cho rằng khi xét xử các tội có cấu thành hình thức, nhất là với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia thì không áp dụng các chế định “Chuẩn bị phạm tội”, “Phạm tội chưa đạt” hoặc “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”;

Về ý kiến này, tác giả thấy như sau:

  1. a) Chế định Chuẩn bị phạm tội:

– Điều 17 BLHS quy định:

“Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.

Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện.”

Chế định “Chuẩn bị phạm tội” liên quan đến khái niệm về “Tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng”. Theo quy định tại Điều 8 BLHS về “Khái niệm tội phạm” thì mức hình phạt cao nhất của một khung hình phạt trong một điều luật quy định về một tội phạm sẽ là căn cứ giới hạn để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

* Nếu người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất đến ba năm tù thì xác định họ phạm một tội “ít nghiêm trọng”;

* Nếu người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất đến bẩy năm tù thì xác định họ phạm một tội “nghiêm trọng”;

* Nếu người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất đến mười lăm năm tù thì xác định họ phạm một tội “rất nghiêm trọng”;

* Nếu người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất là trên mười lăm năm tù, tù chung thân, tử hình thì xác định họ phạm một tội “đặc biệt nghiêm trọng”;

– Tất cả 14 tội xâm phạm an ninh quốc gia đều là những tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng bởi vì cấu thành cơ bản của các tội này đều quy định mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; cấu thành giảm nhẹ của nhiều tội phạm cũng có mức cao nhất của khung hình phạt từ 10, 12 đến 15 năm tù, đều là loại tội rất nghiêm trọng. Do đó, tất cả những hành vi ở giai đoạn Chuẩn bị phạm tội đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh tương ứng.

– Khi xét xử loại tội xâm phạm an ninh quốc gia, cần nắm chắc cấu thành tội phạm của từng tội phạm cụ thể, chú ý phân tích để xác định hành vi của chủ thể thuộc giai đoạn nào trong quá trình diễn biến của tội phạm, nếu hành vi của chủ thể chỉ dừng lại ở giai đoạn Chuẩn bị phạm tội thì phải áp dụng chế định này với họ để áp dụng mức hình phạt phù hợp.

– Cần lưu ý: trong chương này có 4 tội danh có cấu thành tội phạm giảm nhẹ với khung hình phạt có mức hình phạt tù cao nhất đến 7 năm, là loại tội phạm nghiêm trọng, gồm các tội: tội khủng bố nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, khoản 3 Điều 84; tội Phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội, khoản 2 Điều 86; tội Phá hoại chính sách đoàn kết, khoản 2 Điều 87; tội Phá rối an ninh: khoản 2 Điều 89. Nếu hành vi của người phạm tội dừng lại ở giai đoạn Chuẩn bị phạm tội thì họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt giảm nhẹ của 1 trong 4 tội này mà họ định phạm.

  1. b) Chế định Phạm tội chưa đạt:

– Điều 18 BLHS quy định:

“Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những  nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.”

* Khi đã xác định có đủ yếu tố cấu thành một tội phạm cụ thể thì việc xem xét tội phạm đó qua từng giai đoạn thực hiện phải được tuân theo các quy định của BLHS, trong đó có các quy định về “Chuẩn bị phạm tội”, “Phạm tội chưa đạt”, “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” và các chế định khác. Về lý thuyết và theo các quy định tại Phần chung của BLHS thì không có quy định nào về vấn đề “đối với các tội phạm có cấu thành hình thức thì không áp dụng chế định Chuẩn bị phạm tội, Phạm tội chưa đạt …” Hay nói cách khác, các chế định về Chuẩn bị phạm tội, Phạm tội chưa đạt, Tự ý nửa chừng… không chỉ để áp dụng cho các tội phạm có cấu thành vật chất.

* Khi xét xử các loại tội phạm có cấu thành hình thức nói chung và các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói riêng, các Thẩm phán có xu hướng chỉ dừng lại ở nhận thức là đối với các tội này không cần phải có hậu quả xẩy ra, tội phạm cũng đã hoàn thành, xét xử các bị cáo về tội phạm đó là không oan, thế là đạt yêu cầu! Về nguyên tắc thì vẫn phải xem xét tội phạm theo từng giai đoạn thực hiện, từ giai đoạn chuẩn bị đến giai đoạn tội phạm kết thúc, có như vậy mới định tội được chính xác và lượng hình phạt được phù hợp. Trong trường hợp vụ án có nhiều người tham gia, mỗi người tham gia ở các giai đoạn khác nhau, với ý thức chủ quan khác nhau, nếu không xem xét cụ thể về hành vi khách quan, ý thức chủ quan của những người này khi họ tham gia vào vụ án ở những thời điểm khác nhau thì có thể sẽ mắc sai lầm khi xác định vụ án có đồng phạm hay không, dẫn đến làm oan hoặc bỏ lọt người phạm tội.

– Ví dụ: (giả thiết) một người có hành vi liên lạc với cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài với nội dung đề nghị được giúp đỡ để tiến hành các hoạt động nhằm làm suy yếu hoặc lật đổ chính quyền nhân dân ở trong nước; tuy nhiên, lời đề nghị của người này không được phía nước ngoài trả lời hoặc trả lời không chấp nhận. Trong trường hợp này cần xác định chủ thể đã thực hiện hành vi khách quan của tội Phản bội Tổ quốc quy định tại khoản 1 Điều 78 BLHS đó là “Câu kết với nước ngoài”, việc phía nước ngoài không đáp ứng yêu cầu là ngoài sự mong muốn của người này, do đó họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Phản bội Tổ quốc và thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt” theo quy định tại Điều 18 BLHS; trường hợp người này có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có thể họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 78 BLHS mà thôi.

  1. c) Chế định Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:

– Điều 19 BLHS quy định:

“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”

– “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” chỉ được xác nhận khi hành vi của chủ thể dừng lại ở giai đoạn Chuẩn bị phạm tội và Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.

– Trên thực tế, hành vi Chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội ở giai đoạn Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành đối với các tội phạm có cấu thành hình thức nói chung và các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói riêng thường khó bị phát hiện, ranh giới giữa hai chế định này rất mỏng manh. Do đó, khi một người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà có thể áp dụng chế định “Chuẩn bị phạm tội”, “Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành” để truy cứu trách nhiệm hình sự với họ nhằm trừng trị, răn đe, xử lý nghiêm khắc người phạm tội hoặc có thể áp dụng chế định “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” để miễn trách nhiệm hình sự cho họ nếu trong trường hợp cần thiết phải thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng để kêu gọi, vận động, thuyết phục, giáo dục chung.

  1. d) Về tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần”:

Không như cấu thành tăng nặng của một số tội phạm khác, tình tiết “Phạm tội nhiều lần” không được sử dụng làm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia; tại sao lại như vậy, cho đến nay chưa có giải thích nào hoặc kết quả nghiên cứu nào được phổ biến.

 Hầu hết các tội xâm phạm an ninh quốc gia phải có quá trình chuẩn bị công phu, mất nhiều thời gian, với nhiều hành vi riêng lẻ, hành vi trước là tiền đề cho hành vi sau, mọi hành vi đều bị chi phối bởi ý định xâm phạm an ninh quốc gia. Hành vi khách quan trong cấu thành của nhiều tội xâm phạm an ninh quốc gia thường là những hành vi diễn ra liên tục, trong thời gian dài mới có thể đạt được mục đích phạm tội; thuộc loại “Tội liên tục – Là tội phạm có hành vi khách quan bao gồm nhiều hành vi cùng loại xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, xâm hại cùng khách thể và đều bị chi phối bởi ý định phạm tội cụ thể thống nhất” (xem Giáo trình trên, trang 79-80); nếu tách những hành vi khách quan của các tội phạm này ra thì có thể có những hành vi chưa cấu thành tội phạm. Khác với “Phạm tội nhiều lần”, mỗi hành vi đều thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Do đó, cũng tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể để áp dụng hay không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với bị cáo theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.

đ) Về tình tiết “Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; “Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định trong cấu thành của các tội xâm phạm an ninh quốc gia:

– Tình tiết phạm tội “gây hậu quả nghiêm trọng”: tình tiết này được quy định trong cấu thành tăng nặng ở 4 tội danh: tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, khoản 1 Điều 79; tội Xâm phạm an ninh lãnh thổ, khoản 1 Điều 81; tội Bạo loạn, khoản 2 Điều 82; tội Hoạt động phỉ, khoản 1 Điều 83.

– Trường hợp phạm tội “Đặc biệt nghiêm trọng”: tình tiết này được quy định trong cấu thành tăng nặng ở 2 tội danh: tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, khoản 2 Điều 88; tội Trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, khoản 3 Điều 91.

– Trường hợp “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng”: tình tiết này được quy định trong cấu thành giảm nhẹ ở 5 tội danh: tội Gián điệp, khoản 2 Điều 80; tội Phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, khoản 2 Điều 85; tội Phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội, khoản 2 Điều 86; tội Phá hoại chính sách đoàn kết, khoản 2 Điều 87; tội Chống phá trại giam, khoản 2 Điều 90.

Tất cả những khái niệm trên, cho đến nay chưa có giải thích của cơ quan có thẩm quyền, chưa có hướng dẫn của TAND Tối cao và Liên ngành; do đó, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể mà đánh giá, xác định cho đúng các tình tiết này.

  1. VỀ CẤU THÀNH TỘI PHẠM CỦA MỘT SỐ TỘI
  2. Tội Phản bội Tổ quốc

Điều 76 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 ghi rõ:

Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.”. Có lẽ theo đó mà tội phạm đầu tiên được quy định trong BLHS là “Tội phản bội Tổ quốc” tại Điều 78:

“1. Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

  1. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”

Trong số 14 tội xâm phạm an ninh quốc gia, chỉ có tội Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất, thể hiện ở khung hình phạt giảm nhẹ có mức hình phạt thấp nhất là 7 năm tù, cao hơn mức thấp nhất của tất cả các khung hình phạt giảm nhẹ của các tội xâm phạm an ninh quốc gia khác trong chương này.

  1. a) Về khách thể:

– “Khách thể của tội phản bội tổ quốc là quan hệ xã hội có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (xem Giáo trình trên, trang 260).

– Ta thấy phạm vi của khách thể rất rộng, đây cũng chính là khách thể chung của tất cả các cấu thành tội phạm khác trong chương này; lưu ý ở đây là tại sao lại quy định “lực lượng quốc phòng” cũng là khách thể – Điều này dễ hiểu bởi lẽ chức năng của lực lượng quốc phòng là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, bảo vệ Nhà nước. Mọi hành động nhằm làm suy yếu lực lượng quốc phòng cũng là làm suy yếu chế độ, nguy hại tới sự bền vững của quốc gia.

  1. b) Mặt khách quan:

– Về cấu trúc của tội phạm thì đây là tội phạm có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội có hành vi “Câu kết với nước ngoài” nhằm mục đích chống lại Nhà nước là tội phạm đã hoàn thành, không cần phải có hậu quả xẩy ra.

– Tội phạm hoàn thành từ kể từ thời điểm chủ thể có hành vi câu kết với nước ngoài.

– Theo quy định tại khoản 1 của điều luật thì mặt khách quan của cấu thành tội phạm này là hành vi “Câu kết với nước ngoài”, cần hiểu “Câu kết” là sự “quan hệ qua lại chặt chẽ giữa người phạm tội với người nước ngoài” (theo Giáo trình trên; còn theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb KHXH – Trung tâm từ điển, 1994, trang 121 thì Câu kết là “Hợp thành phe cánh để cùng thực hiện âm mưu xấu xa”). Do đó, nếu người phạm tội không có hành vi “Câu kết với nước ngoài” thì không phạm tội này, hay nói cách khác: tội Phản bội Tổ quốc phải có sự liên quan đến yếu tố nước ngoài (“Nước ngoài” ở đây có thể là cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nước của nước ngoài).

– Các hành vi “Câu kết với nước ngoài” cụ thể là:

* Bàn bạc với nước ngoài về mưu đồ chống phá Tổ quốc Việt Nam;

* Nhận sự giúp đỡ của nước ngoài: nhận tiền, vũ khí, phương tiện kỹ thuật… để phục vụ cho các hoạt động nhằm chống lại chính quyền nhân dân;

* Hoạt động dựa vào thế lực nước ngoài hoặc tiếp tay cho nước ngoài hoạt động chống lại Tổ quốc;

Người phạm tội chỉ thực hiện một trong các hành vi nêu trên là tội phạm đã hoàn thành, không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các hành vi này.

  1. c) Mặt chủ quan:

– Theo quy định tại Điều 9 BLHS về “Cố ý phạm tội” thì: “Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

  1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
  2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”.

Theo quy định tại khoản 1 của điều luật trên, đối chiếu với cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, không có lỗi cố ý gián tiếp ở loại tội phạm này.

* Mục đích của người phạm tội là nhằm chống lại chính quyền nhân dân, mong muốn làm thay đổi chế độ chính trị, kinh tế của đất nước. Mục đích là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này (không chỉ với tội Phản bội Tổ quốc mà đối với tất cả các tội thuộc chương này, mục đích là dấu hiệu bắt buộc…)

* Động cơ phạm tội có thể là: vụ lợi, bất mãn với chế độ, nguy hiểm hơn nữa có thể là hận thù giai cấp. Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với cấu thành tội này.

  1. d) Về chủ thể:

– Chỉ có thể là công dân Việt Nam, tức là người mang quốc tịch Việt Nam (xem Luật Quốc tịch). Người nước ngoài không phải là chủ thể của tội phạm này như đối với một số tội phạm khác trong chương này; nếu có người nước ngoài tham gia thì người nước ngoài sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền với vai trò đồng phạm như tổ chức, xúi giục, giúp sức hoặc bị truy cứu về tội gián điệp.

– Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhưng vẫn mang quốc tịch Việt Nam cũng thuộc chủ thể của tội phạm này.

– Về độ tuổi: tất cả công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên đều có thể là chủ thể của tội này. Tuy nhiên, cần lưu ý đối với trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên, bởi lẽ ở độ tuổi này nhận thức của họ còn non nớt, ý thức chính trị không rõ ràng, khi truy cứu trách nhiệm hình sự với họ về tội phạm này (và các tội phạm khác thuộc chương này) cần phải xem xét kỹ về ý thức chủ quan của họ; thực tế chưa gặp trường hợp nào truy tố, xét xử người ở độ tuổi từ đủ 14 đến 16 tuổi về tội này, kể cả trường hợp từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi cũng rất ít (nếu không nói là chưa…).

  1. Tộihoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân

Điều 79 BLHS quy định:

“Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì bị phạt như sau:

  1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình;
  2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”.

Điều luật trên có cấu trúc khá đặc biệt:

– Cấu thành cơ bản của tội phạm được quy định ngay đoạn đầu của điều luật, là cấu thành hình thức, tức là chỉ quy định về hành vi khách quan của tội phạm; không quy định chế tài xử phạt. Nhưng cần chú ý hành vi khách quan trên không phải là hành vi trực tiếp tác động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, mà chỉ là những “hoạt động” để thành lập tổ chức phản động hoặc tham gia tổ chức này với mục đích lật đổ chính quyền nhân dân thì người đó đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này; còn tổ chức này sau đó có hoạt động nhằm lật đổ chính quyền hay không, người này hoạt động như thế nào trong tổ chức đó kể từ khi tham gia,… không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này (xem Giáo trình trên, trang 49 về Cấu thành tội phạm cắt xén).

– Khoản 1 của điều luật là cấu thành tăng nặng, áp dụng đối với người đứng ra thành lập một đảng phái, một tổ chức phản động nào đó để hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; người xúi giục người khác tham gia tổ chức, đảng phái này hoặc người hoạt động tích cực, đắc lực trong tổ chức, đảng phái này.

– Khoản 2 của điều luật là cấu thành giảm nhẹ, áp dụng đối với người đồng phạm, đó là những người bị rủ rê, lôi kéo, xúi giục tham gia tổ chức, đảng phái phản động để hoạt động cho tổ chức, đảng phái đó nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Đối với những người này, chỉ cần họ đồng ý gia nhập tổ chức, đảng phái có cương chỉ, mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, không cần phải có “Quyết định kết nạp” của tổ chức, đảng phái đó đối với họ; bản thân những người này chưa có hoạt động cụ thể gì cho tổ chức, đảng phái đó cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều này.

  1. a) Khách thể:

– Khách thể bị tội phạm xâm hại là sự tồn tại của chính quyền nhân dân, từ cấp địa phương đến cấp trung ương. Không nhất thiết tội phạm phải tác động cùng một lúc tới tất cả các cấp chính quyền trong phạm vi toàn quốc, chỉ cần các chủ thể của tội phạm có mục đích lật đổ chính quyền ở một cấp, ở một địa phương thì khách thể của tội phạm đã bị xâm hại.

– Đối tượng tác động của tội phạm (khách thể trực tiếp) là “Chính quyền nhân dân”. Vậy “Chính quyền nhân dân” ghi trong điều luật này gồm những cơ quan nào? Có ý kiến cho rằng “Chính quyền nhân dân” ở đây chỉ bao gồm Uỷ ban nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, Quốc hội mới là đối tượng tác động của tội phạm này. Vậy các hành vi tấn công vào các cơ quan nhà nước chuyên ngành như Kho bạc nhà nước, Bưu điện, Đài phát thanh, trường học, bệnh viện… và các cơ quan trong hệ thống chính trị như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… có phải là hành vi khách quan của cấu thành tội phạm này không?

Vấn đề này, theo tác giả thì:

Theo Từ điển Tiếng Việt (nêu trên, trang 157), danh từ “Chính quyền” được hiểu theo 2 nghĩa: 1) Quyền điều khiển bộ máy nhà nước. 2) Bộ máy điều khiển, quản lý công việc của nhà nước; theo cả hai nghĩa này thì “Chính quyền nhân dân” ở đây cần được hiểu là Bộ máy Nhà nước, bao gồm các cơ quan đảng, các cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, các cơ quan trong hệ thống chính trị. Do đó, mọi hành vi xâm hại, tấn công vào một trong các cơ quan này với mục đích lật đổ chính quyền nhân dân đều là hành vi khách quan trong cấu thành của tội phạm này.

  1. b) Mặt khách quan:

– Trong cấu thành cơ bản của tội này quy định một người thực hiện một trong hai hành vi sau đây sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

* Hành vi “hoạt động thành lập” tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân: người “hoạt động thành lập” có thể là người đề xướng ra chủ trương, đường lối hoạt động, tuyên truyền lôi kéo, tập hợp người vào tổ chức chống chính quyền nhân dân. Chủ trương, đường lối hoạt động của tổ chức chống chính quyền nhân dân có thể được cụ thể hóa bằng các tài liệu như chính cương, điều lệ, chương trình hành động, tài liệu huấn luyện, lời kêu gọi… Nhưng cũng có thể chỉ là những lời lẽ tuyên truyền, rủ rê người khác cùng đứng ra thành lập tổ chức hay tham gia tổ chức chống chính quyền nhân dân. “Hoạt động thành lập” tổ chức có thể là chuẩn bị cho việc thành lập tổ chức hoặc là đã thành lập được tổ chức. Được coi là hoạt động thành lập tổ chức chống chính quyền nhân dân và tội phạm hoàn thành từ thời điểm một người đề xướng ra chủ trương, đường lối chống chính quyền nhân dân cho người thứ hai biết, dù người thứ hai có thể đồng ý hoặc không đồng ý.

* Hành vi “tham gia” tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân: một người, trên cơ sở nhận thức được mục đích của tổ chức là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nhưng vẫn tán thành và tự nguyện đứng vào hàng ngũ của tổ chức để hoạt động cho tổ chức. Được coi là tham gia tổ chức chống chính quyền nhân dân và tội phạm hoàn thành từ thời điểm biểu thị sự đồng tình gia nhập tổ chức, kể cả trường hợp tổ chức đó chưa được thành lập, không nhất thiết phải được tổ chức làm thủ tục kết nạp, công nhận, không đòi hỏi phải có ít nhiều hoạt động thực tế trong tổ chức.

  1. c) Mặt chủ quan: (xem mục c.1.II về tội Phản bội Tổ quốc)

– Thực tế xét xử có một số trường hợp người tham gia tổ chức chống chính quyền nhân dân để được ra nước ngoài, được học vi tính, học tiếng Anh và đi du lịch không mất tiền… Vấn đề chính quyền có bị lật đổ hay suy yếu, họ không quan tâm. Khi gặp những trường hợp này, một số Hội đồng xét xử thường đánh giá vai trò các bị cáo này hạn chế, phạm tội do cơ hội, động cơ vụ lợi cá nhân, không mang tính chống đối quyết liệt, thù địch gay gắt… tức là đã đánh giá lỗi của bị cáo là lỗi cố ý gián tiếp? Như nói ở phần trên, không có lỗi cố ý gián tiếp trong cấu thành các tội này, vậy có gì là mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực tiễn về vấn đề này? Về nội dung này có lẽ cần phải có nhiều nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử mới có thể hoàn thiện được lý luận về cấu thành tội phạm nói chung và mặt chủ quan nói riêng trong cấu thành các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

– Qua một số vụ án, có tổ chức hoặc một nhóm người hoạt động không nhằm mục đích lật đổ chính quyền nhân dân mà xuất phát từ chỗ nhằm vào những yếu kém, sai sót, khuyết điểm của cá nhân hoặc tập thể lãnh đạo chính quyền nhân dân, lôi kéo nhiều người tham gia khiếu kiện, biểu tình yêu cầu phải cách chức, kỷ luật, thậm chí tấn công những người này, đập phá trụ sở… nhằm bôi nhọ hoặc làm suy giảm uy tín của cá nhân người lãnh đạo chính quyền nhân dân thì cần xem xét kỹ về ý thức chủ quan để định tội cho chính xác; nếu không đủ căn cứ khẳng định mục đích của họ là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì có thể truy cứu những người này về tội bạo loạn hoặc tội khủng bố nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

  1. d) Về chủ thể: (xem mục d.1.II về chủ thể của tội Phản bội Tổ quốc)

– Chủ thể của tội phạm này không bị hạn chế với người nước ngoài như ở tội Phản bội Tổ quốc, là bất kì ai có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

– Ở một số vụ án, số bị cáo trong độ tuổi từ 20 đến 35 chiếm tỷ lệ cao; những người này thường là những sinh viên các trường đại học, cao đẳng, nhiều người đã tốt nghiệp 2 – 3 trường đại học, có những người là giám đốc công ty, chủ tịch hội đồng quản trị của doanh nghiệp, nhiều người có học vị cao, hiểu biết nhiều về chính trị, pháp luật…

– Có vụ án, tất cả các bị cáo đều theo đạo Thiên chúa giáo, quá trình hoạt động phạm tội của họ thường gắn với sinh hoạt tôn giáo nhà thờ, đằng sau họ có một thủ lĩnh tinh thần là Giám mục, Linh mục, Mục sư nào đó…

Nắm chắc đặc điểm, trình độ của bị cáo trước khi xét xử giúp Thẩm phán chủ tọa chủ động chuẩn bị nội dung xét hỏi, đấu lý với bị cáo một cách vững vàng tại phiên tòa công khai là điều rất cần thiết, nhất là những phiên tòa xét xử các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

  1. Tội gián điệp

– Điều 80 BLHS quy định như sau:

“1. Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

  1. a) Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
  2. b) Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại;
  3. c) Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  4. Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
  5. Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự”.

– Tội gián điệp là tội có cấu thành hình thức; tội phạm hoàn thành từ thời điểm chủ thể nhận làm gián điệp hoặc từ thời điểm chủ thể xâm nhập biên giới; trong cả hai trường hợp, dù chủ thể chưa thực hiện một trong các hoạt động tình báo, hoạt động phá hoại, hoạt động gây cơ sở, hoạt động thám báo thì tội phạm cũng đã hoàn thành.

– So với tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, về chế tài xử phạt thì hai tội như nhau, quy định tại khoản 1 và khoản 2 của mỗi điều; nhưng ở tội Gián điệp thì có khác là nếu người đã nhận lời làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú thì được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3); còn ở tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền thì chỉ cần đã nhận lời tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền, dù chưa được kết nạp vào tổ chức, chưa hoạt động gì cho tổ chức đó và tự thú thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

– So sánh với tội Phản bội Tổ quốc thì tội Gián điệp cũng có dấu hiệu quan hệ với nước ngoài, nhưng khác ở chỗ: trong tội Phản bội Tổ quốc, sự quan hệ đó chặt chẽ hơn, đạt đến mức độ “câu kết”; trong tội Gián điệp, sự quan hệ với nước ngoài không chặt chẽ bằng, chỉ là “sự chỉ đạo của nước ngoài”; tội Phản bội Tổ quốc nhằm mục đích thay đổi chế độ chinh trị, kinh tế – xã hội, lật đổ chính quyền nhân dân; tội Gián điệp chỉ nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân nói chung. Nếu hành vi gián điệp có cấu kết với nước ngoài nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì hành vi đó cấu thành tội Phản bội Tổ quốc.

  1. a) Khách thể:

– Gián điệp là một trong những hành vi xâm phạm an ninh đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, đến khả năng phòng thủ đất nước.

  1. b) Mặt khách quan:

– Tội gián điệp được thể hiện bởi các hành vi quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 điều 80 BLHS:

* Hoạt động tình báo thể hiện ở những hành vi của người nước ngoài và người không có quốc tịch tiến hành điều tra, thu thập tin tức, tài liệu thuộc bí mật nhà nước hoặc không thuộc bí mật nhà nước để sử dụng chống lại Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Người Việt Nam có những hành vi này để cung cấp cho nước ngoài để họ sử dụng các tài liệu này chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là hoạt động tình báo, phạm tội gián điệp.

* Phá hoại là hành vi làm cho đối tượng của tội phạm (các công trình, phương tiện, tài sản…) hoàn toàn mất hẳn, không khôi phục được, mất hẳn hoặc mất một phần giá trị sử dụng; cũng được coi là phá hoại đối với các hành vi phá hoại hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách kimh tế – xã hội của Nhà nước. Đối tượng tác động của hành vi phá hoại có thể là vật chất, có thể là các chính sách kinh tế – xã hội.

* Gây cơ sở là hoạt động tìm kiếm người, rủ rê, dụ dỗ, mua chuộc họ để được giúp đỡ, che giấu cho những hoạt động tình báo, phá hoại.

* Hoạt động thám báo nói ở khoản 1 điểm b là những hành vi hoạt động chủ yếu ở vùng biên giới, vừa có tính chất thu thập tin tức, tình hình quân sự, vừa mang tính chất biệt kích vũ trang xâm nhập vào nội địa, phục kích, tập kích, bắt cóc, bắn giết cán bộ, bộ đội.

  1. c) Mặt chủ quan:

 – Cũng như nhiều tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp;

– Mục đích là chống chính quyền nhân dân, là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm; nếu làm gián điệp với mục đích lật đổ chính quyền thì cấu thành tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Điều 88 BLHS.

– Động cơ phạm tội có thể là vụ lợi, bất mãn chế độ, hận thù giai cấp… Động cơ phạm tội không có ý nghĩa trong việc định tội, chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình phạt.

  1. d) Chủ thể:

– Chủ thể của tội phạm có thể là người nước ngoài, thực hiện hành vi khách quan của tội gián điệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 80 BLHS.

– Công dân Việt Nam có thể là người đang ở trong nước hoặc từ nước ngoài trở về Việt Nam, nhận nhiệm vụ, thực hiện sự chỉ đạo của tổ chức gián điệp nước ngoài hoặc của người nước ngoài; hành vi khách quan của chủ thể là công dân Việt Nam được quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 80 BLHS.

  1. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

– Điều 88 BLHS quy định: “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

  1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
  2. a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
  3. b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
  4. c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  5. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm”.

Nghiên cứu nội dung điều luật ta thấy:

– Khoản 1 là cấu thành cơ bản, quy định 3 loại hành vi ở các điểm a, b, c.

– Khoản 2 là cấu thành tăng nặng, dành cho các trường hợp “đặc biệt nghiêm trọng” với khung hình phạt từ 10 năm đến 20 năm tù; nhẹ hơn so với ba tội trên và một số tội khác trong chương này.

– Tội phạm có cấu trúc cấu thành hình thức, chỉ cần chủ thể thực hiện một trong ba hành vi nêu ở các điểm a, b, c khoản 1 của điều luật là tội phạm đã hoàn thành.

  1. a) Khách thể:

Tội phạm này xâm phạm đến sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong xã hội, gây nghi ngờ, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ XHCN với Đảng và Nhà nước, qua đó đe dọa sự vững mạnh của chính quyền nhân dân và chế độ.

  1. b) Mặt khách quan:

– Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở các hành vi quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 điều này, tức là bằng những lời nói, việc làm như:

* Cho xem, cho đọc, cho nghe, in ấn, vẽ, chép lại, ghi băng, tàng trữ sách, báo, phim, tranh ảnh, bản nhạc và mọi tài liệu, văn hóa phẩm… nhằm lưu hành, truyền bá cho người khác những suy nghĩ, tư tưởng, quan điểm có nội dung phản động, xuyên tạc đường lối, chính sách, gieo rắc những tư tưởng nghi ngờ, bất mãn với chế độ XHCN; kích động tư tưởng chống đối, oán ghét, căm thù chính quyền nhân dân, kêu gọi, vận động nhiều người tham gia biểu tình, tập trung khiếu kiện đông người… nhằm làm suy yếu chính quyền nhân dân, suy yếu chế độ XHCN.

* Tuyên truyền những thông tin bịa đặt, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân.

* Đồng thời can phạm còn ca ngợi, tô hồng, suy tôn các giá trị tinh thần theo lối sống ích kỷ cá nhân, tôn thờ vật chất, xã hội dân chủ tự do của các thế lực phản động, vẽ ra viễn cảnh từ phía nước ngoài, so sánh vật chất tầm thường…

– Can phạm có thể thực hiện những hành vi trên một cách công khai hoặc tinh vi sảo quyệt, nói bóng gió, lập lờ hai mặt… Chúng thường nhằm vào các đối tượng có thái độ bất mãn chính trị, chán ghét chế độ, thích hưởng thụ, nhân danh đổi mới… để làm quen rồi rủ rê, lôi kéo họ, tỏ vẻ sốt sắng quan tâm giúp đỡ vật chất rồi tiến tới khống chế, sử dụng những người này hoạt động cho chúng; sử dụng công nghệ thông tin để tuyên truyền, kêu gọi trên phạm vi rộng cả trong nước và nước ngoài.

– Lợi dụng các sinh hoạt tập thể, cộng đồng như biểu diễn văn nghệ, thi đấu thể thao, lễ hội, cầu nguyện ở nhà thờ hoặc tham gia hoạt động tại các hội như hội từ thiện, hội nghề nghiệp… để vận động, tuyên truyền, lôi kéo, xuyên tạc sự thật, nói xấu Đảng, Nhà nước.

  1. c) Mặt chủ quan:

– Cũng là lỗi cố ý trực tiếp; mục đích là nhằm chống lại Nhà nước ở mức độ làm suy yếu Nhà nước, suy yếu chế độ là dấu hiệu bắt buộc.

– Nếu hành vi tuyên truyền chống chế độ, chống Nhà nước với mục đích thay đổi chế độ chính trị, đòi đa nguyên đa đảng, xóa bỏ nhà nước XHCN… thì cần phải xem xét hành vi của chủ thể về tội nặng hơn đó là tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Ngược lại, nếu các chủ thể có hành vi như ghi ở các điểm a, b, c khoản 1 nhưng không có hoặc không rõ là có mục đích làm suy yếu chính quyền nhân dân thì có thể chỉ bị truy cứu trách nhiện hình sự về những tội khác nhẹ hơn không thuộc loại tội xâm phạm an ninh quốc gia như tội cản trở thực hiện nghĩa vụ quân sự khi họ phao tin, bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, hoặc là tội xúc phạm quốc kì, quốc huy khi họ có hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung xúc phạm quốc kì, quốc huy.

  1. d) Chủ thể: xem ở tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền.

III. MỘT SỐ VỤ ÁN CỤ THỂ

  1. Vụ án Hồ Đức Hòa và đồng phạm ở Nghệ An phạm tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”

Vụ án này có 14 bị cáo bị truy tố, xét xử sơ thẩm, gồm: Hồ Đức Hòa, sinh năm 1974; Lê Văn Sơn, sinh năm 1985; Đặng Xuân Diệu, sinh năm 1979; Nguyễn Đặng Minh Mẫn, sinh năm 1985; Nguyễn Văn Duyệt, sinh năm 1980; Nguyễn Đình Cương, sinh năm 1981; Nguyễn Xuân Anh, sinh năm 1985; Thái Văn Dung, sinh năm 1988; Trần Minh Nhật, sinh năm 1988; Hồ Văn Oanh, sinh năm 1985; Nguyễn Văn Oai, sinh năm 1981; Nông Hùng Anh, sinh năm 1983; Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc, sinh năm 1980; Đặng Ngọc Minh, sinh năm 1957 (mẹ đẻ của 2 bị cáo Phúc và Mẫn) Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

  1. a)Sơ lược thông tin về tổ chứcphản động “Việt Tân”:

Ngày 10/9/1982, tại vùng rừng núi Ubon, Thái Lan, Hoàng Cơ Minh (Tướng quân đội Việt Nam cộng hòa trước năm 1975) đã lập ra tổ chức “Việt Nam canh tân cách mạng đảng” gọi tắt là “Việt Tân” là cơ quan đầu não, chỉ huy mọi hoạt động của “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”; trong cương lĩnh, điều lệ của “Việt Tân” có ghi rõ mục đích là “Chấm dứt chế độ độc tài đảng trị Việt Nam”. Sau khi được thành lập, tổ chức Việt Tân đã tổ chức huấn luyện vũ trang, khủng bố như hướng dẫn cách sử dụng các loại vũ khí quân dụng, cách đánh phá cầu đường, cách bắt cóc cán bộ Việt Nam… cho các thành viên. Từ năm 1982 – 1989, “Việt Tân” đã tiến hành các chiến dịch “Đông tiến 1”, “Đông tiến 2”, “Đông tiến 3” đưa các toán vũ trang từ Thái Lan xâm nhập qua đường Lào, Campuchia về Việt Nam để lập “mật cứ”, tiến hành các hoạt động bạo loạn, khủng bố với mục đích xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chính quyền nhân dân, thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tại Việt Nam. Hiện nay, “Việt Tân” có trụ sở chính tại San Jose, Mỹ.

Thời gian gần đây, “Việt Tân” thay đổi về phương thức hoạt động, từ vũ trang bạo động sang đấu tranh bất bạo động; nhưng bản chất, “Việt Tân” vẫn là một tổ chức phản động, hoạt động với mục đích nêu trên. Thực hiện phương thức hoạt động mới, “Việt Tân” đẩy mạnh tuyên truyền, móc nối, tuyển lựa phát triển lực lượng trong nước, tập trung vào giới sinh viên, trí thức, thanh niên công giáo có thái độ bất mãn chính trị… Các đối tượng cầm đầu, cốt cán của “Việt Tân” đã tiến hành liên lạc với một số đối tượng ở trong nước qua mạng Internet, trong đó có các bị cáo trong vụ án này, tổ chức lôi kéo, đưa những người này từ trong nước đến một số nước ở khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Philippines, Lào, Campuchia để kết nạp, huấn luyện, phục vụ ý đồ “chuyển lửa về quê hương” và “công khai hóa Việt Tân” ở trong nước; tổ chức các hoạt động biểu tình, gây sức ép với Đảng và Nhà nước, chờ thời cơ lật đổ chính quyền nhân dân.

  1. b)Tóm tắt hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hoặc là tự tìm hiểu trên các trang mạng, hoặc là được người khác giới thiệu, rủ rê; 14 bị cáo trên đã tham gia các khóa huấn luyện của “Việt Tân” tại các nước Thái Lan, Philippines, Lào, Campuchia về các nội dung: Cương lĩnh, mục đích hoạt động của “Việt Tân”; phương pháp đấu tranh bất bạo động; kỹ năng sử dụng máy tính, vượt tường lửa, an ninh mạng; cách đối phó với công an Việt Nam khi bị tình nghi, phát hiện; cách thức tiếp cận, lôi kéo, tuyển chọn người tham gia tổ chức; cách thức gây sức ép với chính quyền các cấp ở Việt Nam… Được “Việt Tân” trang bị một số phương tiện như máy ảnh, máy tính, camera và cấp tiền để hoạt động theo chỉ đạo của “Việt Tân”.

Trong vụ án có 4 bị cáo, gồm: Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị truy tố, xét xử sơ thẩm về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo khoản 1 Điều 79 BLHS bởi 4 bị cáo này có hành vi vận động, rủ rê một số người khác (là các bị cáo khác trong vụ án này) tham gia “Việt Tân”; người rủ rê, xúi giục được nhiều người tham gia “Việt Tân” là bị cáo Hồ Đức Hòa, lôi kéo được 9 người, đồng thời là người phụ trách nhóm ở trong nước, là người đứng đầu vụ án này; Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị quy kết về hành vi xúi giục anh trai mình là Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc tham gia “Việt Tân”; Đặng Xuân Diệu bị quy kết về hành vi xúi giục hai người tham gia “Việt Tân” là Trần Minh Nhật và Nguyễn Xuân Kim (Kim trốn, không có lời khai); Lê Văn Sơn bị truy tố về hành vi xúi giục một người là Nông Hùng Anh tham gia “Việt Tân”.

Còn 10 bị cáo khác bị truy tố, xét xử về cùng tội danh nhưng ở khung hình phạt nhẹ hơn theo khoản 2 cùng điều luật bởi hành vi tham gia tổ chức này. Hành vi của những bị cáo này là tự nguyện tham gia các khóa huấn luyện của “Việt Tân” mở ở nước ngoài; người tham gia huấn luyện nhiều lần nhất là 5 lần; người tham gia ít nhất là 1 lần.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2013/HSST ngày 09/01/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tuyên bố các bị cáo: Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Văn Duyệt, Nguyễn Xuân Anh, Hồ Văn Oanh, Thái Văn Dung, Trần Minh Nhật, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc, Đặng Ngọc Minh, Nguyễn Văn Oai, Nông Hùng Anh phạm tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và xử phạt các bị cáo như sau:

– Áp dụng khoản 1 Điều 79; Điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt Hồ Đức Hòa 13 năm tù; Nguyễn Đặng Minh Mẫn 8 năm tù. Không áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo với hai bị cáo Lê Văn Sơn và Đặng Xuân Diệu, xử phạt mỗi bị cáo 13 năm tù.

– Áp dụng khoản 2 Điều 79; Điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 47 BLHS, xử phạt 10 bị cáo còn lại từ 3-4 năm tù; trong đó có bị cáo Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc được hưởng án treo.

– Tòa án cấp sơ thẩm còn áp dụng Điều 92 BLHS, phạt bổ sung tất cả 14 bị cáo trong vụ án này là “Phạt quản chế, cấm đi khỏi nơi cư trú… sau khi chấp hành xong hình phạt tù” với mỗi bị cáo từ 3 đến 5 năm; ri