TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 284/2020/DS-PT NGÀY 12/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Vào các ngày 05 và 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2020/TLPT-DS ngày 06 tháng 01 năm 2020, về “Tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 486/2019/DS-ST ngày 22/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 266/2020/QĐ-PT ngày 04 tháng 02 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 1617/QĐ-PT ngày 03 tháng 3 năm 2020 và số 2356/2020/QĐ-PT ngày 17 tháng 3 năm 2020, Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên toà phúc thẩm số 3101/TA – TB ngày 14 tháng 4 năm 2020 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lâm Nghĩa H, sinh năm 1958 (có mặt) Địa chỉ: Số 35 đường R1, phường N, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh

2. Bị đơn: Công ty TNHH B Địa chỉ trụ sở: Tầng 25, Số 37 đường R2, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Thành L Địa chỉ liên hệ: Tầng 25, Số 37 đường R2, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) (Văn bản ủy quyền số 12-20/04.20/legal ngày 20 tháng 4 năm 2020)

3. Người kháng cáo: Nguyên đơn – Ông Lâm Nghĩa H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:

Trong đơn khởi kiện đề ngày 12/6/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn – Ông Lâm Nghĩa H trình bày:

Nguyên đơn và bị đơn – Công ty TNHH B có ký Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ số 00182519; bị đơn cấp cho nguyên đơn Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00182519 ngày 18 tháng 6 năm 2008. Số tiền phí bảo hiểm nguyên đơn đóng mỗi tháng gồm: 260.900 đồng phí bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang; 152.900 đồng phí bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn; 30.000 đồng phí bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn. Nguyên đơn đã đóng 48 tháng x 443.800đồng/tháng = 21.302.400 đồng, trong đó, tiền phí bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang là 12.523.200 đồng, tiền bảo hiểm phi nhân thọ là 8.779.200 đồng.

Nguyên đơn và bị đơn có ký Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ số 00196105; bị đơn cấp cho nguyên đơn Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008. Số tiền phí bảo hiểm nguyên đơn đóng mỗi tháng gồm: 130.400 đồng phí bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang; 76.500 đồng phí bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn; 15.000 đồng phí bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn. Nguyên đơn đã đóng 49 tháng x 221.900 đồng/tháng = 10.873.100 đồng, trong đó, tiền phí bảo hiểm Phú – Tích Lũy An Khang là 6.389.600 đồng, tiền bảo hiểm phi nhân thọ là 4.483.500 đồng.

Nguyên đơn xác nhận hai hợp đồng bảo hiểm đã được khôi phục hiệu lực (tái tục) bằng cách dời ngày bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nên giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ được phát hành trước đây không còn giá trị.

Khi nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang có giá trị hoàn lại sau hai năm đóng phí thì bị đơn chỉ đồng ý trả 607.600 đồng cho Hợp đồng số 00182519 và 302.300 đồng cho Hợp đồng số 00196105. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải có người có thẩm quyền ký xác nhận là chỉ đồng ý trả số tiền trên cho nguyên đơn. Bị đơn từ chối mà nói trả chỉ có vậy, nếu đồng ý thì ký vào và bị đơn sẽ trả số tiền trên. Vì thế nguyên đơn mới kiện ra tòa đòi quyền lợi của mình. Tại Tòa, đại diện bị đơn là ông Lương Xuân D khẳng định không thể cung cấp ai là người có trách nhiệm xác nhận văn bản này.

Nguyên đơn xác nhận có ký hủy hai hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này ngày 07 tháng 3 năm 2019 nhưng nguyên đơn không đồng ý với số tiền bị đơn đề nghị thanh toán là 607.600 đồng và 302.300 đồng mà bị đơn ghi trong hai văn bản này nên nguyên đơn không nhận số tiền và khiếu nại.

Hợp đồng bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang là hợp đồng có giá trị giải ước khi đóng đủ 02 năm, còn hai hợp đồng phi nhân thọ là bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn và bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn không có giá trị hoàn lại hay giải ước và bị mất số tiền đã đóng khi không có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do nguyên đơn có khó khăn nên không đóng tiếp và để dành khoảng 16.000.000 đồng giá trị giải ước để khi cần có thể sử dụng. Nay khi nguyên đơn cần thì bị đơn viện dẫn điều khoản tự động đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và cho rằng đã đóng hết tự động cho phi nhân thọ nên không đồng ý trả tiền. Nguyên đơn không đồng ý vì hợp đồng nào ra hợp đồng đó, không thể lấy điều khoản hợp đồng này áp vào hợp đồng phi nhân thọ vốn không có điều khoản tự động đóng phí.

Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại 18.912.800 đồng giá trị hoàn lại (cách gọi cũ là giá trị giải ước) của phần nguyên đơn đóng bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang của Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của các Hợp đồng số 00182519 và số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008.

Do bị đơn không cung cấp được giá trị hoàn lại là bao nhiêu phần trăm và trong hợp đồng cũng không quy định cụ thể nên nguyên đơn xác định giá trị hoàn lại bằng 100% x tổng số tiền nguyên đơn đã đóng bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang.

Ông Lương Xuân D là người đại diện hợp pháp của bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và trình bày:

Bị đơn xác nhận hai bên có ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ số 00182519 và số 00196105 từ năm 2001, sau đó hai hợp đồng này đã được khôi phục hiệu lực (tái tục) bằng cách dời ngày bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Sau đó, bị đơn đã cấp cho nguyên đơn Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00182519 ngày 18 tháng 6 năm 2008; Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008 có các chi tiết tương ứng với ngày hiệu lực mới ngày 01 tháng 01 năm 2007; Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ được phát hành trước đây không còn giá trị.

Theo quy định tại Điều 4.3.1 và Điều 5.2.9 của Điều khoản hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang thì nếu chủ hợp đồng không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, không yêu cầu hủy bỏ hợp đồng khi hết thời gian gia hạn nộp phí bảo hiểm và hợp đồng đã có giá trị giải ước, bị đơn sẽ tự động cho chủ hợp đồng tạm ứng từ giá trị giải ước số tiền tương đương với khoản phí bảo hiểm đến hạn để nộp phí bảo hiểm và Trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, bị đơn sẽ không có quyền hủy bỏ hay thay đổi các điều khoản và điều kiện của hợp đồng bảo hiểm, trừ khi được sự chấp thuận bằng văn bản của bên mua bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng liên quan đến hợp đồng bảo hiểm đã giao kết, bị đơn sẽ đóng phí tự động từ giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm chính. Trường hợp khách hàng yêu cầu hủy hợp đồng thì phải có văn bản thông báo cho bị đơn biết về việc này.

Tuy nhiên, hết thời gian gia hạn đóng phí bảo hiểm, bị đơn đã không nhận được bất kỳ yêu cầu hoặc thông tin phản hồi nào của khách hàng liên quan đến việc yêu cầu hủy hợp đồng. Nguyên đơn không thể tham gia các sản phẩm bảo hiểm bổ sung độc lập mà phải tham gia cùng với sản phẩm chính; Quy tắc, điều khoản của các sản phẩm bổ sung là những nội dung thỏa thuận bổ sung giữa bị đơn và nguyên đơn nhằm bổ sung cho người được bảo hiểm có tên trong hợp đồng bảo hiểm đã ký kết. Do đó, các quy định về thủ tục bảo hiểm, thủ tục giải quyết quyền lợi bảo hiểm và giải quyết tranh chấp được hiểu theo đúng nghĩa đã được giải thích trong điều khoản hợp đồng chính.

Bị đơn chỉ đồng ý thanh toán cho nguyên đơn 909.900 đồng giá trị hoàn lại (giá trị giải ước theo cách gọi cũ) còn lại, cụ thể:

Đối với hợp đồng số 00182519, nguyên đơn đã đóng 48 tháng x 443.800 đồng/tháng = 21.302.400 đồng; giá trị hoàn lại là 10.803.600 đồng; bị đơn đã đóng phí tự động từ giá trị hoàn lại là 10.196.000 đồng; giá trị hoàn lại còn lại là 607.600 đồng.

Đối với hợp đồng số 00196105, nguyên đơn đã đóng 49 tháng x 221.900 đồng/tháng = 10.873.100đồng; giá trị hoàn lại là 5.401.800đồng; bị đơn đã đóng phí tự động từ giá trị hoàn lại là 5.099.500đồng; giá trị hoàn lại còn lại là 302.300 đồng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 486/2019/DS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của Ông Lâm Nghĩa H.

Buộc Công ty TNHH B có nghĩa vụ thanh toán cho Ông Lâm Nghĩa H 909.900 đồng giá trị hoàn lại tại thời điểm hủy hợp đồng ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00182519 ngày 18 tháng 6 năm 2008; Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Lâm Nghĩa H đòi Công ty TNHH B thanh toán 18.002.900 đồng.

3. Về án phí: Công ty TNHH B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Lâm Nghĩa H được miễn án phí dân sự sơ thẩm; Hoàn trả cho Ông Lâm Nghĩa H số tiền 421.610 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp theo biên lai số AA/2018/0007880 ngày 25 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quyền thi hành án của các đương sự.

Ngày 02/12/2019, nguyên đơn – Ông Lâm Nghĩa H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Tại đơn kháng cáo ngày 02/12/2019 và tại phiên toà Phúc thẩm nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm vì các lý do: Bản án sơ thẩm đã xâm phạm quyền lợi của nguyên đơn; thẩm phán không thực hiện đúng trình tự, thủ tục hỏi tại phiên tòa; thư ký và thẩm phán không cho nguyên đơn xem biên bản phiên tòa sau khi Tòa tuyên án; bị đơn không đặt câu hỏi, không tranh luận với nguyên đơn, không cung cấp hóa đơn, bảng kê khai thuế; bản án sơ thẩm căn cứ Điều khoản Hợp đồng hảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang là không có cơ sở vì đây không phải hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn; không có căn cứ để xác định nguyên đơn phải đóng phí bảo hiểm cho các bảo hiểm phi nhân thọ trong khi nguyên đơn không có văn bản xác nhận tiếp tục mua bảo hiểm này và cũng không có chứng cứ nào chứng minh bị đơn đã đóng phí bảo hiểm dùm nguyên đơn. Theo Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, trong khi đó, nguyên đơn và bị đơn không cùng ký hợp đồng bảo hiểm mà bản án sơ thẩm nhận định hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu là không có căn cứ. Nguyên đơn và bị đơn đã ký hợp đồng bảo hiểm từ năm 2001 nhưng có một khoảng thời gian nguyên đơn không thực hiện hợp đồng nên sau đó nguyên đơn đã có đơn đề nghị bị đơn tái tục hợp đồng. Nguyên đơn đã nhận được các thông báo ngày 18/6/2008, tại thời điểm này nguyên đơn đã đồng ý với những nội dung của các văn bản do bị đơn gửi cho nguyên đơn và đã ký xác nhận tại các văn bản này. Nguyên đơn đã thực hiện việc đóng bảo hiểm theo hợp đồng được khoảng 4 năm sau đó do khó khăn về kinh tế nên không đóng bảo hiểm và cũng không có đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng. Sau này nhớ lại nguyên đơn mới yêu cầu bị đơn trả lại giá trị hoàn lại của các hợp đồng bảo hiểm đã đóng nhưng bị đơn đã đưa ra những lý do không hợp lý để không hoàn lại tiền theo yêu cầu của nguyên đơn. Nguyên đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Người đại diện của bị đơn – ông Nguyễn Thành L trình bày: Bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng quy định pháp luật để giải quyết vụ án, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Công ty B là công ty bảo hiểm lớn, luôn hoạt động công khai và minh bạch. Phí tự động là nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng khi khách hàng không có điều kiện tiếp tục đóng bảo hiểm nhưng vẫn tiếp tục được thực hiện hợp đồng từ phí tự động và trong thời gian này khách hàng vẫn được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Công thức tính toán giá trị hoàn lại được tính trên cơ sở kỹ thuật loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp sản phẩm bảo hiểm thời hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm được Bộ Tài chính phê duyệt theo Công văn số 6359TC/TCNH ngày 16/12/1999 và được bộ phận chuyên môn của công ty tính toán theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm:

– Về tố tụng: Từ ngày thụ lý đến khi xét xử và tại phiên tòa Phúc thẩm, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đầy đủ và đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

– Về nội dung:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định hai bên có ký Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ số 00182519 và số 00196105 từ năm 2001, sau đó hai hợp đồng này đã được khôi phục hiệu lực (tái tục) bằng cách dời ngày bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm với ngày hiệu lực mới là ngày 01 tháng 01 năm 2007. Đối với Hợp đồng số 00182519, nguyên đơn đã đóng 48 tháng x 443.800 đồng/tháng = 21.302.400 đồng, trong đó, tiền phí bảo hiểm Phú – Tích Lũy An Khang là 12.523.200đồng; Đối với hợp đồng số 00196105, nguyên đơn đã đóng 49 tháng x 221.900 đồng/tháng = 10.873.100 đồng, trong đó, tiền phí bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang là 6.389.600 đồng.

Xét thấy Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của Hợp đồng số 00182519 ngày 18 tháng 6 năm 2008; Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của Hợp đồng số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008 phù hợp quy định tại Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và các Điều 407, 471 của Bộ luật Dân sự năm 2005, đây là loại hợp đồng theo mẫu được ký kết đúng theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 35 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 thì “2. Trong trường hợp phí bảo hiểm được đóng nhiều lần và bên mua bảo hiểm đã đóng một hoặc một số lần phí bảo hiểm nhưng không thể đóng được các khoản phí bảo hiểm tiếp theo thì sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày gia hạn đóng phí, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dưới hai năm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. 3 Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm từ hai năm trở lên mà doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều này thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”. Nguyên đơn cho rằng bị đơn không cung cấp được giá trị hoàn lại là bao nhiêu phần trăm và trong hợp đồng cũng không quy định cụ thể nên nguyên đơn xác định giá trị hoàn lại bằng 100% x tổng số tiền nguyên đơn đã đóng bảo hiểm Phú – Tích lũy An khang là không có cơ sở vì theo quy định tại Điều 1.1.12 của Điều khoản hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang thì “Khoản giảm thu nhập đầu tư là số tiền thu nhập đầu tư bị giảm vì tạm ứng từ giá trị giải ước. Khoản giảm thu nhập đầu tư được tính bằng phần trăm của số tiền tạm ứng từ giá trị giải ước dựa trên giả định kỹ thuật của lãi suất đầu tư”. Do đó, phí bảo hiểm mà khách hàng phải đóng khi tham gia bảo hiểm nhân thọ được tính toán dựa trên phí bảo hiểm nhằm cung cấp các quyền lợi bảo hiểm như cam kết trong hợp đồng bảo hiểm và phí quản lý cho nên giá trị hoàn lại luôn thấp hơn phí đóng bảo hiểm. Theo Văn bản số 6359 TC/TCNH ngày 16 tháng 12 năm 1999 của Bộ Tài chính về việc phê chuẩn quy tắc, điều khoản, biểu phí, số tiền bảo hiểm và Cơ sở kỹ thuật loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp sản phẩm bảo hiểm thời hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm thì Giá trị hoàn lại = Số tiền bảo hiểm x Hệ số bảo hiểm trên số tiền bảo hiểm + Bảo tức tích lũy x Hệ số bảo hiểm trên bảo tức tích lũy nên giá trị hoàn lại của hợp đồng số 00182519 là 10.803.600 đồng và của hợp đồng số 00196105 là 5.401.800 đồng tại thời điểm hủy hợp đồng ngày 07 tháng 3 năm 2019.

Theo quy định tại khoản 4.2.2 và khoản 4.2.3 của Điều khoản hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ Phú Tích lũy an khang quy định: “Trong trường hợp chủ hợp đồng không nộp phí bảo hiểm theo đúng thời hạn đã thỏa thuận, phí bảo hiểm phải nộp được gia hạn 60 ngày kể từ ngày đến kỳ nộp phí bảo hiểm. Sau thời gian gia hạn nộp phí quy định tại Điều 4.2.2, nếu chủ hợp đồng không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, hợp đồng sẽ tự động bị hủy bỏ và chấm dứt hiệu lực, trừ trường hợp được quy định tại Điều 4.3”. Tại khoản 4.3.1 của Điều khoản hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang quy định: “Nếu chủ hợp đồng không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, không yêu cầu hủy bỏ hợp đồng khi hết thời hạn gia hạn nộp phí bảo hiểm và hợp đồng đã có giá trị giải ước, Prudential sẽ tự động cho chủ hợp đồng tạm ứng từ giá trị giải ước số tiền tương đương với khoản phí bảo hiểm đến hạn để nộp phí bảo hiểm”. Do nguyên đơn không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, không yêu cầu hủy bỏ hợp đồng khi hết thời gian gia hạn nộp phí bảo hiểm và hợp đồng đã có giá trị giải ước, bị đơn tự động cho nguyên đơn tạm ứng từ giá trị giải ước số tiền tương đương với khoản phí bảo hiểm đến hạn để nộp phí bảo hiểm phù hợp quy định tại Điều 35 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, các khoản 4.2.2, 4.2.3, 4.3.1 và 4.3.3 của Điều khoản hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang. Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn giá trị hoàn lại tại thời điểm hủy hợp đồng ngày 07 tháng 3 năm 2019 của hợp đồng số 00182519 là 607.600 đồng và của hợp đồng số 00196105 là 302.300 đồng. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán 18.002.900 đồng là có cơ sở nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 486/2019/DS-ST ngày 22/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Xét kháng cáo của nguyên đơn – về việc Tòa án cấp sơ thẩm đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục phiên tòa sơ thẩm, không cho nguyên đơn hỏi tại phiên tòa: Căn cứ nội dung biên bản phiên tòa sơ thẩm và xác nhận của nguyên đơn thì tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã đặt câu hỏi đối với bị đơn. Như vậy, nguyên đơn đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.

[1.2] Đối với kháng cáo của nguyên đơn về việc bị đơn không đặt câu hỏi, không tranh luận với nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm: Đây là việc thực hiện quyền của người tham gia tố tụng, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn và không ảnh hưởng đến việc Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án sơ thẩm.

[1.3] Đối với kháng cáo của nguyên đơn về việc Thẩm phán và thư ký Tòa án không cho nguyên đơn được xem biên bản phiên tòa ngay sau khi kết thúc phiên tòa theo quy định tại khoản 4 Điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự: Đây là các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, không thuộc phạm vi kháng cáo theo Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự “Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.”, Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết yêu cầu này của nguyên đơn. Nguyên đơn có quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương XLI Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.4] Từ những nhận định trên, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về việc hủy bản án sơ thẩm do vi phạm thủ tục tố tụng.

[2] Về nội dung vụ án.

[2.1] Xét hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn và bị đơn.

Căn cứ văn bản đề nghị bảo hiểm số 00196105 và văn bản đề nghị bảo hiểm số 00192519 do nguyên đơn ký tên dưới mục “người yêu cầu bảo hiểm ký tên” và lời khai của các đương sự thể hiện sau khi được tư vấn, nguyên đơn đã yêu cầu được tham gia loại hình bảo hiểm do bị đơn kinh doanh. Căn cứ đơn đề nghị tái tục hợp đồng, Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00182519 ngày 18 tháng 6 năm 2008; Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008 thể hiện giữa nguyên đơn và bị đơn đã giao kết hợp đồng bảo hiểm. Một bên đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm và được bên kia chấp nhận toàn bộ theo quy định tại Điều 390, Điều 396 Bộ luật Dân sự 2005. Việc đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng đều được lập thành văn bản. Tại Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00182519 ngày 18 tháng 6 năm 2008; Thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00196105 ngày 18 tháng 6 năm 2008 đều có nội dung “Giấy chứng nhận bảo hiểm là một phần không thể tách rời của Hợp đồng bảo hiểm và phải được tham chiếu đối với hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và Quy tắc, Điều khoản sản phẩm bảo hiểm”. Mặc dù các bên tham gia bảo hiểm không cùng ký vào một văn bản có tên là Hợp đồng bảo hiểm nhưng bằng các văn bản là đơn yêu cầu bảo hiểm, đơn yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm, thư xác nhận hợp đồng bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm đã có đủ cơ sở xác định các bên đã giao kết hợp đồng bảo hiểm theo Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm “Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” và sự thỏa thuận này được thể hiện bằng hình thức văn bản, phù hợp với quy định tại Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Các nội dung của hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn và bị đơn được các bên thỏa thuận tham chiếu theo Quy tắc, Điều khoản sản phẩm bảo hiểm nên việc Tòa cấp sơ thẩm xác định hợp đồng bảo hiểm giữa các bên là loại hợp đồng theo mẫu là có cơ sở, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về hình thức của hợp đồng. Các bên tham gia hợp đồng đảm bảo điều kiện về chủ thể, tự nguyện giao kết hợp đồng, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật, căn cứ Điều 122 Bộ luật Dân sự, hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp đồng có hiệu lực, người giao kết hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện điều khoản của hợp đồng.

[2.2] Về giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm Căn cứ khoản 2, 3 Điều 35 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 thì “2. Trong trường hợp phí bảo hiểm được đóng nhiều lần và bên mua bảo hiểm đã đóng một hoặc một số lần phí bảo hiểm nhưng không thể đóng được các khoản phí bảo hiểm tiếp theo thì sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày gia hạn đóng phí, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dưới hai năm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. 3. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm từ hai năm trở lên mà doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều này thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”. Do đó, hai hợp đồng bảo hiểm nêu trên đã phát sinh giá trị hoàn lại khi hủy hợp đồng. Căn cứ Điều 1.1.12 của Điều khoản hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang thì “Khoản giảm thu nhập đầu tư là số tiền thu nhập đầu tư bị giảm vì tạm ứng từ giá trị giải ước. Khoản giảm thu nhập đầu tư được tính bằng phần trăm của số tiền tạm ứng từ giá trị giải ước dựa trên giả định kỹ thuật của lãi suất đầu tư”; Căn cứ Cơ sở kỹ thuật loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp sản phẩm bảo hiểm thời hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm đã được Bộ Tài chính phê duyệt theo văn bản số 6359 TC/TCNH ngày 16 tháng 12 năm 1999 về việc phê chuẩn quy tắc, điều khoản, biểu phí, số tiền bảo hiểm thì Giá trị hoàn lại = Số tiền bảo hiểm x Hệ số bảo hiểm trên số tiền bảo hiểm + Bảo tức tích lũy x Hệ số bảo hiểm trên bảo tức tích lũy nên giá trị hoàn lại của hợp đồng số 00182519 là 50.000.000 đồng x 0.14033 + 0.49519 x 7.647.400 đồng = 10.803.600 đồng và của hợp đồng số 00196105 là 25.000.000 đồng x 0.14033 + 3.823.800 đồng x 0.49519 = 5.401.800 đồng. Nguyên đơn yêu cầu tính giá trị hoàn lại của các hợp đồng bảo hiểm là 100% số tiền phí bảo hiểm nguyên đơn đã đóng là không có căn cứ chấp nhận.

[2.3] Về việc tạm ứng số tiền phí bảo hiểm Căn cứ Giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ của hợp đồng số 00182519 và số 00196105 thể hiện bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn và bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn định kỳ đóng phí bảo hiểm mỗi tháng và đóng phí đến ngày 01 tháng 01 năm 2024 nên việc nguyên đơn cho rằng mỗi năm phải có văn bản xác nhận tiếp tục mua hai bảo hiểm bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn, nếu không thì hợp đồng này hết hiệu lực là không có cơ sở. Căn cứ khoản 4.2.2 và khoản 4.2.3 của Điều khoản hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ Phú – Tích lũy An khang “Trong trường hợp chủ hợp đồng không nộp phí bảo hiểm theo đúng thời hạn đã thỏa thuận, phí bảo hiểm phải nộp được gia hạn 60 ngày kể từ ngày đến kỳ nộp phí bảo hiểm. Sau thời gian gia hạn nộp phí quy định tại Điều 4.2.2, nếu chủ hợp đồng không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, hợp đồng sẽ tự động bị hủy bỏ và chấm dứt hiệu lực, trừ trường hợp được quy định tại Điều 4.3”.Tại khoản 4.3.1 Điều 4.3 của Điều khoản hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ Phú Tích lũy an khang quy định “Nếu chủ hợp đồng không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, không yêu cầu hủy bỏ hợp đồng khi hết thời hạn gia hạn nộp phí bảo hiểm, và hợp đồng đã có giá trị giải ước, Prudential sẽ tự động cho chủ hợp đồng tạm ứng từ giá trị giải ước số tiền tương đương với khoản phí bảo hiểm đến hạn để nộp phí bảo hiểm” và tại khoản 3.3 Điều 3 của Cơ sở kỹ thuật loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp sản phẩm bảo hiểm thời hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm đã được Bộ Tài chính phê duyệt cũng quy định “Trong trường hợp không thanh toán phí bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm đã có giá trị giải ước, hợp đồng bảo hiểm sẽ không chấm dứt cho đến khi giá trị giải ước sau khi đã trừ các khoản tạm ứng vẫn còn đủ để thanh toán cho một hay nhiều kỳ phí bảo hiểm”. Do nguyên đơn không thanh toán khoản phí bảo hiểm đến hạn, không yêu cầu hủy bỏ hợp đồng khi hết thời gian gia hạn nộp phí bảo hiểm, và hợp đồng đã có giá trị giải ước, bị đơn tự động cho nguyên đơn tạm ứng từ giá trị giải ước số tiền tương đương với khoản phí bảo hiểm đến hạn để nộp phí bảo hiểm là phù hợp với nội dung hợp đồng bảo hiểm. Số tiền phí bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm số 00182519 là 10.196.000 đồng và của hợp đồng số 00196105 là 5.099.500 đồng.

Nguyên đơn kháng cáo cho rằng bị đơn không cung cấp được hóa đơn và bảng khai thuế đối với số tiền phí bảo hiểm bị đơn đóng hộ nguyên đơn. Xét, bị đơn tự động cho nguyên đơn tạm ứng từ giá trị giải ước số tiền tương đương với khoản phí bảo hiểm đến hạn để nộp phí bảo hiểm và bị đơn là bên được nhận tiền phí bảo hiểm, không phải thu hộ cho nguyên đơn để giao nộp cho bên thứ 3 nên việc cung cấp hóa đơn, chứng từ để chứng minh đã thu số tiền phí bảo hiểm là không cần thiết.

[2.4] Về số tiền bị đơn phải trả cho nguyên đơn.

Sau khi trừ số tiền tạm ứng phí bảo hiểm, bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm số 00182519 là 10.803.600 đồng – 10.196.000 đồng = 607.600 đồng và của hợp đồng bảo hiểm số 00196105 là 5.401.800 đồng – 5.099.500 đồng = 302.300 đồng. Tổng số tiền là 909.900 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thanh toán 18.912.800 đồng – 909.900 đồng = 18.002.900 đồng là đúng pháp luật.

[3] Từ những nhận định trên và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.

[4] Về án phí:

Bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền phải trả cho nguyên đơn.

Nguyên đơn là người cao tuổi được miễn án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 236, Điều 271, Điều 293 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Căn cứ Điều 122, Điều 390, Điều 396 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Căn cứ Điều 12, Điều 14, khoản 2,3 Điều 35 Luật Kinh doanh Bảo hiểm năm 2000.

Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn – Ông Lâm Nghĩa H.

1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 486/2019/DS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Nguyên đơn được miễn án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn lại cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí Phúc thẩm đã nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005402 ngày 03/12/2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Luật sư bào chữa Dragon nhận giải quyết các vụ án về tranh chấp bảo hiểm nhân thọ. Thông tin liên hệ dưới chân trang. Tư vấn 24/7.

 

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Tự thú là gì?

Tự thú là hành vi người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước

Giải đáp thắc mắc

Tự thú là gì?

Tự thú là hành vi người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Quy định về tự thú: Theo điểm h Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố

Xem chi tiết »

Tham ô số tiền lớn bao nhiêu thì bị tử hình

Theo quy định của pháp luật hiện hành, tội tham ô tài sản có thể bị áp dụng hình phạt tử hình khi số tiền tham ô đạt hoặc vượt quá 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc áp dụng hình phạt cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều

Xem chi tiết »

Thủ tục trưng cầu giám định pháp y tâm thần

Thủ tục trưng cầu giám định pháp y tâm thần theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: 1. Nộp đơn đề nghị trưng cầu giám định: Đơn đề nghị trưng cầu giám định phải ghi rõ: Tên, địa chỉ của người đề nghị giám định.

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!