HƯỚNG DẪN CỦA IBA VỀ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Được Hội đồng Hiệp hội Luật sư Quốc tế phê duyệt ngày 22 tháng 5 năm 2004
Giới thiệu
PHẦN I: Các tiêu chuẩn chung liên quan đến sự Vô tư, Độc lập và Công khai
PHẦN II: Việc áp dụng thực tế các tiêu chuẩn chung
- Danh sách đỏ không miễn trừ
- Danh sách đổ miễn trừ
2.1 Mối quan hệ của trọng tài viên đối với tranh chấp
2.2 Lợi ích trực tiếp và gián tiếp của trọng tài viên trong tranh chấp
2.3 Mối quan hệ của trọng tài viên với các Bên hay luật sư
- Danh sách da cam.
3.1. Các dịch vụ trước đây dành cho một trong các bên hoặc một bên liên quan trong vụ kiện
3.2. Các dịch vụ hiện nay dành cho các bên
3.3. Mối quan hệ giữa một trọng tài viên với một trọng tài viên khác hoặc với luật sư
3.4. Mối quan hệ giữa trọng tài viênvà một Bên liên quan khác trong tố tụng trọng tài
3.5.Các trường hợp khác
- Danh sách xanh
4.1. Các quan điểm pháp luật đã từng được trình bày trước đây
4.2. Các vụ trước đây chống lại một bên
4.3. Các vụ hiện nay của một trong các bên
4.4. Sự liên lạc giữa trọng tài viên khác hoặc với luật sư đối với một trong các bên
5. Sự liên lạc giữa trọng tài viên và một trong các bên
Giới thiệu
- Vấn đề xung đột lợi ích đang ngày càng gây nhiều thách thức đối với trọng tàiquốc tế. Các Trọng tài viên thường không chắc chắn về các việc cần công bố và họ có thể có những lựa chọn khác nhau về việc công khai hơn các trọng tài khác trong một tình huống tương tự. Sự tăng trưởng của thương mại quốc tế và cách thức tiến hành thương mại bao gồm sự kết hợp các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các công ty luật quốc tế ngày càng lớn hơn đã tạo ra sự công khai hơn và tạo ra nhiều vấn đề xung đột lợi ích khó khăn hơn. Các bên có nhiều cơ hội hơn để sử dụng sự phản đối của trọng tài để trì hoãn quá trình trọng tài hoặc phủ nhận trọng tài viên do bên đôi kháng lựa chọn. Việc công khai các mối quan hệ cho dù có nghiêm trọng hay không thường dẫn đến những sự phản đối, rút lui hay loại bỏ trọng tài viên.
- Vì vậy, các Bên, trọng tài viên, các tổ chức và tòa án phải đối mặt với những quyết định phức tạp về việc công khai tiết lộ cái gì, và đâu là tiêu chuẩn để áp dụng. Thêm vào đó, các tổ chức và tòa án phải đối mặt với những quyết định rất khó khăn nếu có sự phản đối sau khi công bố. Có sự mâu thuẫn giữa một bên là quyền công bố của các bên mà có thể trở thành vấn đề về sự khách quan hay độc lập của trọng tài viên và quyền hạn của họ được xét xử công bằng với một bên là quyền lựa chọn là quyền lựa chọn trọng tài của các bên. Mặc dù luật và các quy tắc tố tụng trọng tài có quy định một số tiêu chuẩn nhưng vẫn thiếu chi tiết trong hướng dẫn và sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng. Vì vậy các, thành viên trong cộng đồng trọng tài quốc tế thường xuyên áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau khi đưa ra các quyết định liên quan đến công khai và phản đối.
- Đó sẽ là lợi ích của tất cả mọi người trong cộng đồng trọng tài quốc tế khi quá trình tố tụng trọng tài không bj can rtrở bởi các vấn đề xung đột lợi ích ngày càng gia tăng. Ủy ban về trọng tài và ADR của Hiệp hội Luật sư Quốc tế đã chỉ định một Nhóm làm việc gồm 19 chuyên gia trong trọng tài quốc tế đến từ 14 nước để nghiên cứu luật quốc gia, các quyết định của tòa án, các quy tắc tố tụng trọng tài và các vấn đề áp dụng thực tiễn liên quan đến sự khách quan và độc lập, công khai trong trong tố tngj trọng tài quốc tế với mục đích hỗ trợ quá trình ra quyết định. Nhóm làm việc đã đi đến quyết định rằng các tiêu chuẩn hiện nay thiếu sự rõ ràng cần thiết và sự thống nhất trong việc áp dụng. Vì thế, nhóm đã chuẩn bị Hướng dẫn này quy định một số Tiêu chuẩn Chung và những chú thích giải thích về các tiêu chuẩn. Hơn nữa, Nhóm làm việc cũng tin rằng có sự nhất quán hơn và ít có sự phản đối, rút lui hay loại bỏ trọng tài viên hơn có thể đạt được bằng việc đưa ra một danh sách các tình huống cụ thể mà theo quan điểm của nhóm làm việc thì những tình huống này có thể đảm bảo hoặc không đảm bảo tính công khai hoặc tư cách của trong tài viên. Danh sách đó – Đỏ, Da cam và xanh (gọi là “Danh sách áp dụng”) – sẽ có tại phần cuối của hướng dẫn này.
- Hướng dẫn thể hiện cách hiểu của Nhóm Làm việc về thực tiễn quóc tế hiện nay bắt nguồn từ những nguyên tắc đã được miêu tả trong Tiêu chuẩn Chung. Nhóm Làm việc đã xây dựng Tiêu chuẩn Chung và Danh sách Áp dụng dựa trên những đạo luật và các án lệ và dựa trên các phán quyết và kinh nghiệm của các thành viên trong Nhóm Làm việc và của những người khác liên quan trong cộng đồng trọng tài thương mại quốc tế. Nhóm Làm việc cũng đã cố gắng cân bằng lợi ích khác nhau của các bên, các đại diện, trọng tài viên và các tổ chức trọng tài – những người có trách nhiệm phải đảm bảo sự toàn vẹn, dang tiếng và hiệu quả tố tụng của trọng tài thương mại quốc tế. Đặc biệt Nhóm Làm việc cũng đã tìm và xem xét quan điểm của nhiều tổ chức trọng tài hàng đầu cung như các tòa án và những người khác có liên quan đến trọng tài quốc tế. Nhóm Làm việc xuất bản bản thảo hướng dẫn và tìm thu thập những ý kiến nhận xét tại cuộc họp thường niên của Hiệup hội Luật sư Quốc tế và các cuộc họp khác của trọng tài viên. Trong khi các ý kiến mag nhóm làm việc nhận được rất đa dạng và có cả một số quan điểm chỉ trích thì cộng đồng trọng tài nói chung rất ủng hộ và khuyến khích những nỗ lực của Nhóm Làm việc nhằm hỗ trợ làm giảm thiểu các vấn đề xung đột lợi ích ngày càng gia tăng. Nhóm Làm việc đã nghiên cứu tất cả các ý kiến bình luận nhận được và đã áp dụng nhiều trong số những những đề xuất mag nhóm đã nhận được. Nhóm Làm việc thực sự rất cảm ơn sự quan tâm đến những đề xuất của Nhóm của rất nhiều tổ chức và cá nhân trên toàn thế giới và cảm ơn tất cả những ý kiến nhận xét và những đề xuất mà nhóm nhận được.
- Ban đầu, Nhóm Làm việc đã phát triển Hướng dẫn tố tụng trọng tài thương mại quốc tế. Tuy nhiên, với những ý kiến mà Nhóm nhận được, Nhóm đã nhận ra rằng Hướng dẫn này nên được áp dụng bình đẳng cho cả các loại tố tụng trọng tài khác như tố tụng trọng tài đầu tư (khi loại này có thể không được coi là tố tụng trọng tài thương mại).
- Những Hướng dẫn này không pahỉ là những quy định pháp lý và không có quyền cao hơn luật quốc gia ap dụng và các quy tắc tố tụng trọng tài được lựa chọn bởi các bên. Tuy nhiên, Nhóm Làm việc hy vọng rằng những Hướng dẫn này sẽ được chấp nhận trong cộng đồng trọng tài quốc tế (giống như trường hợp của Quy tắc về thu thập bằng chứng của IBA trong Tố tụng trọng tài thương mại quốc tế) và rằng họ vì vậy sẽ giúp được các bên, những người thực hiện, trọng tài viên, các tổ chức và các tòa án trong quá trình ra quyết định của họ về các vấn đề rất quan trọng về tính khách quan, độc lập, công khai, phản đối. Nhóm Làm việc tin rằg Hướng dẫn sẽ được áp dụng với sựu thống nhất chung nhanh chóng và khôgn có một sự mô phạm và cách giải thích mang tính hình thức nào. Nhóm Làm việc cũng đang xuất bản một cuốn sách mang tên Kiến thức chung và Lịch sử miêu tả những nghiên cưu của nhóm làm việc và có thêr nó sẽ có ích trong việc giải thích Hướng dẫn.
- IBA và Nhóm Làm việc coi Hướng dẫn này là sự khởi đầu chứ không pahỉ là sự kết thúc của một quá trình. Các danh sách áp dụng bao gồm rất nhiều cac tình huống khác nhau thường xảy ra trong thực tế nhưng danh sách này không có nghĩa là hoàn hảo. Tuy nhiên, Nhóm Làm việc cũng tự tin rằng Danh sách Áp dụng sẽ cung cấp những hướng dẫn cụ thể hơn Tiêu chuẩn Chung (và chắc chắn cụ thể hơn các tiêu chuẩn hiện hành). IBA và Nhóm Làm việc đã thu thập những lời nhận xét về việc sử dụng thực tế các Hướng dẫn và họ định bổ sung, sửa đổi, sàng lọc các Hướng dẫn dựa trên những kinh nghiệm thực tế đó.
- Năm 1987, IBA đã xuất bản Quy tắc về Đạo đức dành cho các Trọng tài viên Quốc tế. Bộ quy tắc này đề cập nhiều chủ đề hơn trong Hướng dẫn này và chúng vẫn còn hiệu lực đối với những vấn đề không được nói đến trong Hướng dẫn. Hướng dẫn đã thay thế Quy tắc về Đạo đức đối với các vấn đề được nhắc đến ở đây.
PHẦN I: CÁC TIÊU CHUẨN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN SỰ VÔ TƯ, ĐỘC LẬP VÀ CÔNG KHAI
(1) Nguyên tắc chung
Mỗi trọng tài viên đều phải vô tư và độc lập với các bên tại thời điểm chấp nhận sự chỉ định là trọng tài viên và vẫn phải giữ được những phẩm chất này trong toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài cho đến khi quyết định cuối cùng được đưa ra hay quá trình tố tụng kết thúc
Giải thích Tiêu chuẩn 1:
Nhóm Làm việc tuân theo những hướng dẫn trong nguyên tắc cơ bản trong tố tụng trọng tài quốc tế, theo đó mối trọng tài viênphải vô tư và độc lập với các bên tại thời điểm trọng tài viên này chấp nhận sự chỉ định là trọng tài phải giữ được những phẩm chất này trong toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài. Nhóm Làm việc đã xem xét xem liệu nghĩa vụ này có nên mở rộng trong suốt thời gian mà phán quyết có thể bị khước từ nhưng Nhóm vẫn chưa có quyết định về vấn đề này. Nhóm Làm việc theo quan điểm cho rằng nghĩa vụ của trọng tài kết thúc khi Hội đồng trọng tài đưa ra phán quyết cuối cùng hoặc quá trình tố tụng vì một lý do nào đó đã kết thúc (ví dụ như đã hòa giải). Nếu sau khi hủy một vụ kiện và bắt đầu một vụ kiện mới, tranh chấp được tham chiếu tới cùng một trọng tài viên thì một vòng tiết lộ công khai mới có thể cần thiết.
(2) Xung đột lợi ích
(a) Một trọng tài viên phải từ chối chấp nhận sự chỉ định hoặc nếu vụ tố tụng trọng tài đã bắt đầu thì phải từ chối tiếp tục vai trò là trọng tài viên nếu anh ấy hoặc cô ấy có bất kỳ nghi gờ nào về khả năng có thể vô tư và độc lập của mình.
(b) Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng nếu có những sự kiện tình huống tồn tại hoặc phát sinh từ khi chỉ định mà từ quan điểm của một người thứ ba có hiểu biết về những sự kiện liên quan cho thấy những nghi ngờ hợp lý về sự vô tư hay độc lập của trọng tài viên, trừ trường hợp các bên chấp nhận trọng tài viên theo những yêu cầu được quy định trong Tiêu chuẩn chung (4).
(c) Những nghi ngờ được coi là chính đáng nếu một bên thứ ba hợp lý có kết luận rằng có khẳ năng trọng tài viên sẽ bị anh rhưởng bởi những nhân tố ngoài nội dung của vụ kiện như đã được trình bày bởi các bên khi đưa ra quyết định của mình.
(d) Phải có những nghi ngờ chính đáng về tính vô tư và độc lập của trọng tài viên nếu có sự giống nhau giữa một bên và trọng tài viên. Nếu trọng tài viên có lợi ích cá nhân hoặc tài chính đáng kể trong vấn đề đó.
Giải thích Tiêu chuẩn 2:
(a) Đó là nguyên tắc đạo đức cơ bản của mỗi trọng tài viên mà sự thiên vị thực sự từ quan điểm của mỗi trọng tài viên phải dẫn đến việc trọng tài từ chối sự chỉ định làm trọng tài. Tiêu chuẩn này phải được áp dụng bất kể đang ở tiêu chuẩn nào của quá trình tố tụng trọng tài. Nguyên tắc này hiển nhiên đên nỗi nhiều luật quốc gia không có quy định rõ ràng về vấn đề này. Xem ví dụ Điều 12, Luật Mẫu UNCITRAL. Tuy nhiên, Nhóm làm việc đã kết luận điều đó trọng Tiêu chuẩn Chung vì những quy định rõ ràng trong Hướng dẫn này giúp tránh được sự nhầm lẫn và tạo sự tự tin trong quá trình tố tụng trước Hội đồng trọng tài. Thêm vào đó, Nhóm Làm việc cũng tin rằng tiêu chuẩn rất rộng về
“bất kỳ nghi ngờ nào về khả năng có thể vô tư và độc lập” sẽ dẫn đến viêc trngj tài viên phải từ chối sự chỉ định làm trọng tài.
(b) Để các tiêu chuẩn có thể được áp dụng một cách thống nhất, Nhóm Làm việc tin rằng việc kiểm tra tư cách trọng tài phải được thực hiện một cách khách quan. Nhóm Làm việc sử dụng cụm từ “sự vô tư hay độc lập” (impartiality àn independence) bắt nguồn từ Điều 12, Luật Mẫu UNCITRAL vè việc sử dụng việc kiểm tra vẻ bề ngoài dựa trên những nghi ngờ chính đáng về sự vô tư hay độc lập của trọng tài viên như quy định trong Điều 12(2) Luật Mẫu UNCITRAL được áp dụng một cách khách quan (“sự kiểm tra của một người thú 3 hợp lý”). Như được nói trong phần giải thích Tiêu chuẩn Chung 3(d), tiêu chuẩn này được áp dụng tại bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng trọng tài.
(c) Hầu hết các luật và các quy tắc áp dụng tiêu chuẩn về sự ngi ngờ hợp lý đều không có những quy định them về tiêu chuẩn đó. Nhóm Làm việc tin rằng Tiêu chuẩn Chung này sẽ có một số quy định phục vụ cho quá trình quyết định này.
(e) Nhóm làm việc ủng hộ quan điểm cho rằng không ai được cho phép trọng tài xét xử cho chính bản thân mình; ví dụ như không thể có sự gốing nhau giữa một trọng tài viê và một bên. Nhóm Làm việc cũng tin rằng trường hợp này có không thể bị các bên khước từ. Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng cho các cá nhân là đại diện pháp lý của một pháp nhân là một bên trong vụ tố tụng trọng tài giống như các thành viên trong ban giám đốc hay những người có lợi ích kinh tế đáng kể trong vụ việc đó. Vì tầm quan trọng của nguyên tắc này, trường hợp không khước từ được đưa ra trong Tiêu chuẩn Chung và các ví dụ cũng được nêu rõ trong Danh sách Đỏ không thể khước từ.
Các tiêu chuẩn chung đã sử dụng từ “nhận dạng” (identity) và “đại diện pháp lý” (legal representatives). Với những ý kiến nhận xét nhận được, Nhóm Làm việc đã xem xét liệu những cụm từ này có nên được mở rộng nghĩa hay có nên được định nghĩa lại nhưng Nhóm vẫn chưa có quyết định về vấn đề này. Nhóm nhận ra rằng có những trường hợp mà một nhân viên của một bên hay một công chức nhà nước có thể ở trong một vị trí tương tự nếu không nói là vị trí giống hệt với vị trí của một đại diện pháp lý chính thức. Nhóm làm việc đã quyết định chỉ cần nói lại nguyên tắc đó.
(3) Sự tiết lộ thông tin của trọng tài viên
(a) Nếu có các sự kiện hay tình huống mà trong mắt của các bên gây ra những nghi ngờ về tính vô tư độc lập của tọng tài thì trọng tài phải công bố các sự kiện, tình huống đó cho các bên, tổ chức trọng tài hay những người có trách nhiệm khác (nếu có và nếu quy tắc của các tổ chức trọng tài áp dụng yêu cầu) và với cả các đồng trọng tài viên, nếu có trước khi chấp nhận sự chỉ định hoặc ngay sau khi phát hiện ra điều đó.
(b) Theo Tiêu chuẩn Chung 1 và 2(a), một trọng tài viên đã công bố thông tin coi mình là vô tư và độc lập với các bên bất chấp những điều chưa được công bố và vì vậy có khả năng hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là một trọng tài viên. Tuy nhiên, người này vẫn có thể từ chối sự bổ nhiệm hay chỉ định ngay từ đẫu hoặc xin từ chức.
(c) Bất cứ nghi ngờ nào về việc liệu một trọng tài viên có nên công bố thông tin nhất định hay không sẽ được giải quyết…
(d) Khi xem xét liệu có nên tiết lộ một số thông tin hay không, trọng tài không cần quan tâm đến vấn đề liệu quá trình tố tụng trọng tài đang ở giai đoạn đầu hay giai đoạn sau.
Giải thích Tiêu chuẩn Chung 3:
(a) Tiêu chuẩn Chung 2(b) ở trên đặt ra một bài kiểm tra khách quan về sự phù hợp của một trọng tài viên. Tuy nhiên vì phải quan tâm đến nhiều vấn đề khác nhau đến việc công bố thông tin nên các tiêu chuẩn hợp lý về công bố thông tin có thể khác. Một bài kiểm tra đơn thuần về việc công bố thông tin có trong phần lớn các án lệ đã được phân tích và trong cả luật mẫu UNICITRAL. Tuy nhiên, Nhóm Làm việc cũng nhận ra rằng các bên sẽ có lợi ích khi được công báo đầy đủ về bất kỳ trường hợp nào có thể liên quan đến trường hợp của họ. Vì quan điểm mạnh mẽ của rất nhiều tổ chức trọng tài (như được phản ánh trong quy tắc của họ và như nói với Nhóm Làm việc) rằng bài kiểm tra về công bố thông tin nên phản ánh thực trạng của các bên, nên Nhóm LÀm việc đã chấp nhận về mặt nguyên tắc cách tiếp cận mang tính chủ quan về việc công bố thông tin sau rất nhiều bàn luận. Nhóm Làm việc cũng đã thay đổi ngôn ngữ trong Điều 7(2), Quy tắc ICC về tiêu chuẩn này.
Tương tự như vậy, Nhóm Làm việc nhấn mạnh rằng hai bài kiểm tra (bài kiểm tra khách quan để kiểm tra tính phù hợp của trọng tài và bài kiểm tra chủ quan danh cho sự công bố thông tin) là khác nhau và sự công bố thông tin không tự động dẫn đến sự không phù hợp của trọng tài như được thể hiện trong Tiêu chuẩn Chung 3(b).
Khi quyết định thông tin nào sẽ được công bố, trọng tài viên nên xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến mình bao gồm cả văn hóa và tập quán của nước mà các bên cư trú.
(b) công bố thông tin không phải là sự thừa nhận xung đột lợ ích. Một trọng tài đã công bố thông tin có thể tự coi mình là vô tư và độc lập với các bên mặc dù một số thông tin chưa được công bố, nếu không người này có thể từ chối sự bổ nhiệm hoặc là từ chức. Một trọng tài đã công bố thông tin vì vậy cảm thấy mình có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đó là mục đích của việc công bố thông tin khi cho phép các bên tự quyết định xem họ có đồng ý với những đánh giá của trọng tài hay không và nếu họ muốn họ có thể tìm hiểu thêm. Nhóm Làm việc chỉ hy vọng rằng sự công bố Tiêu chuẩn Chung này sẽ giảm thiểu những sự hiểu lầm rằng sự công bố là sự nghi ngờ đủ để loại bổ một trọng tài. Thay vào đó, bất cứ sự khước từ nào chỉ thành công nếu vượt qua được bài kiểm tra khách quan nói trên.
(c) Những sự công bố thông tin không cần thiết đôi khi lại làm cho các bên có cách hiểu không đúng rằng các thông tin được công bố có ảnh hưởng đến sự vô tư và độc lập của trọng tài. Công bố nhiều thông tin quá sẽ làm giảm sự tự tin của các bên trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, sau khi bàn bạc, Nhóm Làm việc cho rằng việc quy định rõ ràng trong Tiêu chuẩn Chung là rất quan trọng trong trường hợp có nghi ngờ thì trọng tài phải công bố thông tin. Nếu trọng tài viên cảm thấy mình nên công bố thông tin nhưng quy tắ nghề nghiệp và các quy tắc thực tế khác không cho phép thì trọng tài không nên chấp nhận sự bổ nhiệm làm trọng tài hoặc là xin từ chức.
(d) Một trọng tài có thể hỗ trợ các bên trong việc giải quyết tranh chấp ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, trước khi làm vậy, trọng tài viên phải nhận được một thỏa thuận rõ ràng của các bên cho phép hành động như vậy sẽ không làm trọng tài mất tư cách tiếp tục vai trò trọng tài của mình. Thỏa thuận đó sẽ được coi là một khước từ hiểu quả xung đột lợi ích tiềm năng có thể phát sinh từ việc trọng tài tham gia vào quá trình tố tụng hoặc từ những thông tin mà trọng tài biết được trong quá trình tiến hành vụ hiện. Nếu như sự hỗ trợ của trọng tài không dẫn đến vụ kiện cuối cùng đã được giải quyết thì các bên vẫn bị ràng buộc bởi sự khước từ. Tuy nhiên, theo Tiêu cuẩn Xanh 2(a) và mặc dù thỏa thuận đó, trọng tài viên sẽ vẫn phải từ chức nếu trọng tài có những nghi ngờ về khả năng có thể tiếp tục sự vô tư và độc lập trong quá trình tố tụng tiếp theo.
Giải thích tiêu chuẩn 4:
(a) Nhóm làm việc để xuất một yêu cầu về sự phản đối rõ ràng của các bên trong một giới hạn nhất định. Theo quan điểm của Nhóm làm việc, giwois hạn thời gian này nên áp dụng cho bên nào muốn từ chối tham gia tố tụng trọng tài.
(b) Tiêu chuẩn chung này ra đời để Tiêu chuẩn chung 4(a) nhất quán với các quy định không thể khước từ trong Tiêu chuẩn chung 2(d). Ví dụ về các trường hợp đó được miêu tả trong Danh sác Đỏ không thể khước từ.
(c) Trong một xung đột lợi ích nghiêm trọng như được miêu tả bằng các ví dụ trong Danh sác Đỏ có thể khước từ, các bên có thể chỉ định người đó làm trọng tài. Ở đây cần phải cân bằng giữa quyền tự quyết của các bên và mong muốn có những trọng tài vô tư và độc lập. Nhóm làm việc tin rằng những người với những xung đột lợi ích thực sự vấn có thể làm trọng tài chỉ khi nào các bên đã được thông báo đầy đủ và đã bỏ qua một cách rõ ràng những xung đột này.
(d) Việc Hội đồng trọng tài hỗ trợ các bên trong việc giải quyết tranh chấp suốt quá trình tố tụng trọng tài đã được thực hiện rất tốt trong hầu hết các vụ nhưng trong một số trường hợp lại không phải như vậy. Sự thỏa thuận đã được thông báo của các bên về một quá trình như vậy trước khi bắt đầu vỵ kiện sẽ được coi là một sự bỏ quá có hiệu lực những xung đột lợi ích tiềm năng. Suewj đồng ý này phải được thể hiện rõ ràng và đầy đủ không giống với một thỏa thuận bằng văn bản mà trong một số vụ còn không cần cả chứ ký. Trong thực tế, yêu cầu về việc bỏ quá những xung đột lợi ích phải được thể hiện rõ ràng cho phép sự chấp thuận được làm trong các biên bản của phiên tòa giải quyết tranh chấp. Thêm vào đó, để tránh việc các bên sử dụng trọng tài với vai trò là người hòa giải như một phương tiện để loại bỏ trọng tài, Tiêu chuẩn chung quy định rõ ràng việc bỏ qua những xung đột lợi ích sẽ vẫn có hiệu lực nếu việc hòa giải không thành công. Vì vậy, các bên thường coi đó là rủi ro của việc trọng tài có thể biết một số thông tin trong quá trình giải quyết tránh chấp. Khi đưa ra chấp nhận, các bên phải biết được kết quả của sự trợ giúp của trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp và phải đồng ý về quy định này khi thích hợp.
(5) Phạm vi
Hướng dẫn này áp dụng giống nhau cho chủ tịch hội đồng trọng tài, trọng tài viên duy nhất và các trọng tài viên do các bên chỉ định. Hướng dẫn này không áp dụng cho các trọng tài không trung lập – những nguwoif không có nghĩa vụ phải độc lập và vô tư mà một số quy tắc tố tụng trọng tài và luật quốc gia vẫn cho phép.
Giải thích Tiêu chuẩn chung 5:
Vì mỗi thành viên trong Hội đồng trọng tài đều phải có nghĩa vụ vô tư và độc lập nên các Tiêu chuẩn chung không phân biệt giữa trọng tài duy nhất, trọng tà do các bên chỉ định hay chủ tịch hội đồng trọng tài. Liên quan đến thư ký của hội đồng trọng tài, Nhóm làm việc có quan điểm rằng trách nhiệm của trọng tài phải đảm bảo rằng thư ký luôn vô tư và độc lập.
Một số quy tắc tố tụng trọng tài và các luật trong nước cho phép trọng tài do các bên chỉ định có thể không trung lập. Hướng dẫn này không áp dụng cho trọng tài không trung lập vì mục đích của Hướng dẫn là để bảo vệ sự vô tư và độc lập.
(6) Các mối quan hệ.
(a) Khi xem xét sự liên quan của các sự kiện và trường hợp để quyết định xem có tồn tại xung đột lợi ích hay không hay liệu có cần phải có một vụ điều trần hay không thì các hoạt động của một công ty luật của trọng tài nếu có sẽ được xem xét một cách thận trọng trong từng vụ. Vì vậy, việc các hoạt động của một công ty của trọng tài liên quan đến một trong các bên sẽ không tự động tạo thành nguồn xung đột hay là lý do để tổ chức các phiên điều trần.
(b) Tương tự như vậy, nếu một trong các bên là một pháp nhân mà là một thành viên trong một nhóm có liên quan đến công ty của trọng tài thì nhwungx thông tin sự kiện cũng sẽ phải được xem xét kỹ lưỡng trong từng vụ cụ thể. Vì thế, nếu chỉ có thông tin này sẽ không tự động cấu thành nguồn xung đột hay là lý do để tổ chức các phiên điều trần.
(c) Nếu một trong các bên là một pháp nhân thì người quản lý, giám đốc và các thành viên trong ban quản lý của pháp nhân đó và bất kỳ người nào có khả năng kiểm soát tương tự đối với pháp nhân này đều được coi tương đương với pháp nhân.
Giải thích tiêu chuẩn chung 6:
(a) Quy mô ngày càng tăng của các công ty luật cũng sẽ được tính đến như một phần của thực tế hiện nay trong tố tụng trọng tài quốc tế. Cần phải cân bằng giữa lợi ích của các bên sử dụng trọng tài do học lựa chọn với vai trò quan trọng của việc đảm bảo sự tin tưởng về sự vô tư và độc lập của các vụ tố tụng trọng tài quốc tế. Theo quan điểm của Nhóm làm việc, về nguyên tắc trọng tài phải được xem giống như công ty luật của trọng tài nhưng các hoạt động của công ty trọng tài không tự động hình thành nên xung đột lợi ích. Sự liên quan của các hoạt động đó như về bản chất, thời gian hay phạm vi của công việc của công ty luật sẽ được xem xét một cách hợp lý trong từng vụ cụ thể. Nhóm làm việc sử dụng cụm từ “liên quan” (involvement) chứ không phải là “làm việc cho” (acting for) vì mối quan hệ liên quan của một công ty luật có thể bao gồm cả các hoạt động chứ không chỉ là đại diện về vấn đề pháp lý.
(b) Khi một bên trong vụ kiện tố tụng trọng tài là thành viên của một tập đoàn thì có thể phát sinh những vấn đề đặc biệt liên quan đến xung đột lợi ích. Như đã nói ở trong chương trước, Nhóm làm việc tin rằng do sự sắp xếp cơ cấu doanh nghiệp khác nhau khá lớn nên một quy tắc tự động là không thích hợp. Thay vào đó, những trường hợp cụ thể của một công ty khác trong cùng một tập đoàn phải được xem xét một cách hợp lý trong từng vụ kiện.
(c) Một bên trong một vụ kiện bằng trọng tài quốc tế thường là pháp nhân. Vì thế, tiêu chuẩn chung này phân loại cá nhân nào sẽ được xem xét thuộc bên đó.
(7)Nhiệm vụ của trọng tài và các bên.
(a) Một bên phải thông báo cho trọng tài viên, Hội đồng trọng tài và các bên khác và tổ chức trọng tài hoặc người có trách nhiệm (nếu có) về bất kỳ mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp nào giữa bên này (hoặc một công ty khác trong cùng tập đoàn) với trọng tài viên. Bên đó sẽ phải làm theo ý kiến của mình trước khi bắt đầu vụ kiện tố tụng trọng tài hoặc ngay khi bên này biết về mối quan hệ đó.
(b) Để phù hợp với Tiêu chuẩn chung 7(a), một bên phải cung cấp bất kỳ thông tin nào mà mình có và phải thực hiện một nghiên cứu về các thông tin đó.
(c) Một trọng tài phải có trách nhiệm có những yêu cầu hợp lý để điều tra bất kỳ xing đột lợi ích tiềm năng nào cũng như bất kỳ thông tin nào có thể khiến sự vô tư và độc lập của trọng tài nằm trong tình trạng bị nghi vấn. Không công bố xung đột tiềm năng không phải do thiếu thông tin nếu như trọng tài không có sự cố gắng hợp lý để điều tra.
Giải thích tiêu chuẩn chung 7:
Để giảm thiểu rủi ro lạm dụng việc cố tình phản đối lại sự vô từ và độc lập của trọng tài thì các bên cần phải công bố bất cứ mối quan hệ liên quan nào với trọng tài viên. Thêm vào đó, bất cứ bên nào hoặc những người có thể là một bên trong vụ kiện ngay từ đầu đã bị yêu cầu phải có sự cố gắng hợp lý để xác minh và công bố những thông tin công khai có sẵn mà áp dụng theo tiêu chuẩn chung có thể ảnh hưởng đến sự vô tư và độc lập của trọng tài. Nghĩa vụ vủa trọng tài hoặc những người được coi là trọng tài là phải đưa ra những yêu cầu tương tự và công bố bất cứ thông tin nào có ảnh hưởng đến sự độc lập và vô tư của trọng tài.
PHẦN II: VIỆC ÁP DỤNG THỰC TẾ
CÁC TIÊU CHUẨN CHUNG.
- Nhóm làm việc tin rằng nếu Hướng dẫn có một ảnh hưởng thực tế quan trọng thì Hướng dẫn cần phản anh được các tình huống có thể xảy ra trong thực tiến tố tụng trọng tài hiện nay. Hước dẫn cũng cung cấp những hội hướng dẫn cụ thể cho các trọng tài, các bên, các tổ chức trọng tài và các tòa án về các tình huống nào có xung đột lợi ích hay nên phải công bố.
Với mục đích này, các thành viên của Nhóm làm việc đã phân tích luật tương ứng và phân loại các trường hợp có thể xảy ra trong Danh sách sau đây. Danh sách này rõ ràng là không thể có hết các tình huống nhưng nó cung cấp hướng dẫn trong rất nhiều trường hợp và Nhóm làm việc đã cố gắng để làm những hướng dẫn này trở nên dễ hiểu nhất có thể. Trong hầu hết các trường hợp, Tiêu chuẩn chung đều có thể áo dụng được.
- Danh sách đó bao gồm 2 phần: “Danh sách Đỏ không thể khước từ” (xem Tiêu chuẩn Chung 2(c) và 4(b)) và “Danh sách đỏ có thể khước từ” (xem Tiêu chuẩn Chung 4(c)). Các danh sách này là sự liệt kê không đầy đủ tất cả các tình huống cụ thể mà tùy vào từng trường hợp nhất định có thể làm nảy sinh những nghi ngờ về tính vô tư và độc lập của trọng tài.Ví dụ, theo quan điểm của một người thứ ba có kiến thức liên quan, trong những trường hợp này có sự xung đột lợi ích khách quan (xem tiêu chuẩn Chung2(b)). Danh sách đỏ không thể khước từ bao gồm cả những tình huống bắt nguồn từ một nguyên tắc quan trọng nhất là không ai có thể be his or her own judge. Vì vậy, việc công bố tình huống đó không thể giải quyết được xung đột đó. Danh sách có thể khước từ lại bao gồm những tình huống nghiêm túc nhưng không quá nghiêm trọng. Vì sự nghiêm tức đó nên không giống các trường hợp khác được miêu tả trong Danh sác Da cam, những tình huống này được coi là có thể khước từ khi và chỉ khi các bên mặc dù có sự xung đột lợi ích nhưng vẫn thể hiện sự sẵn sàng chấp nhận người đó là trọng tài như quy định trong Tiêu chuẩn Chung 4(c).
- Danh sách Da cam lại là một tập hợp không đầy đủ các tình huống cụ thể mà phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể theo quan điểm của các bên có thể làm này sinh những nghi ngờ về sự vô tư và độc lập của trọng tài. Danh sách Da cam vì vậy thể hiện các trường hợp mà sẽ rơi vào Tiêu chuẩn Chung 3(a), theo đó trọng tài phải có nghĩa vụ công bố các tình huống đó. Trong tất cả các trường hợp này các bên được coi là đã chấp nhận một trọng tài nếu sau khi công bố không có một sự phản đối đúng lúc nào được đưa ra (Tiêu chuẩn Chung 4(a).
- Như đã nói ở trên, nên chú ý rằng sự công bố thông tin đó sẽ không tự động gây ra sự loại bỏ trọng tài, không có giả thuyết nào liên quan đến việc loại bỏ trọng tài phát sinh từ việc công bố. Mục tiêu của việc công bố thông tin là để thông báo cho các bên về một tình huống mà họ muốn biết thêm thông tin để quyết định một cách khách quan xem liệu có phát sinh sự nghi ngờ về tính vô tư và độc lập của trọng tài theo quan điểm của một người thứ ba có hiểu biết về các vấn đề liên quan. Nếu kết luận là không có sự nghi ngờ gì, thì trọng tài vẫn có thể tiếp tục vai trò của mình. Người đó vẫn có thể làm trọng tài nếu không có sự phản đối đúng lúc nào được dưa ra bởi các bên hoặc trong các trường hợp trong Danh sách Đỏ có thể từ chối không có sự chấp nhận cụ thể nào của các bên phù hợp với Tiêu chuẩn Chung 4(c). Tất nhiên nếu một bên phản đối việc chỉ định một trọng tài, nguwoif đó vẫn có thể làm trọng tài nếu người có thẩm quyền về sự phản đối quyết định rằng phản đối đó không đáp ứng được bài kiểm tra khách quan về sự phù hợp của trọng tài.
- Thêm vào đó, một sự phản đối sau này dựa vào việc trọng tài không công bố các thông tin sẽ không tự động gây ra sự không bổ nhiệm, sự bãi bỏ tư cách trọng tài sau này hay là sự phản đối thành công đối với bất kỳ phán quyết nào. Theo quan điểm của Nhóm làm việc, việc không công bố khoont ểh làm một trọng tài trở thành thiếu khách quan hay thiếu tính độc lập, chỉ có những thông tin mà người này không công bố mới có thể làm được như vậy.
- Danh sách Xanh gồm những tình huống cụ thể mà không có sự xuất hiện và không có những xung đột thực sự theo quan điểm khách qua. Vì vậy, trọng tài không phải công bố những tính huống nằm trong danh sách Xanh. Theo quan điểm của Nhóm làm việc như đã nói trong phần Giải thích Tiêu chuẩn chung 3(a), nên có một giới hạn đối với việc công bố thông tin dựa trên tính hợp lý trong một số trường hợp, một bài kiêm tra tính khách quan sẽ tốt hơn một bài kiêm tra mang tính chủ quan đơn thuần theo quan điểm của các bên.
- Các tình huống diễn ra ngoài giới hạn thời gian quy định trong Danh sách Cam sẽ được coi là thuộc danh sách Xanh mặc dầu không có quy định cụ thể về điều này. Tuy nhiên, một trọng tài có thể muốn công bố thông tin nếu theo tiêu chuẩn Chung người này cho là thích hợp. Trong khi đã tranh cãi rất nhiều về thời gian giới hạn quy định trong các Danh sách, Nhóm làm việc đã kết luận rằng những giới hạn đó là thích hợp và đã cung cấp những hướng dẫn mà hiện nay không còn nữa. Ví dụ, thời hạn 3 năm trong Danh sách Cam 3.1 có thể quá dài trong một số trường hợp nhất định nhưn lại trở nên quá ngắn trong những trường hợp khác, tuy nhiên Nhóm làm việc vẫn tin rằng thời hạn trên là tiêu chí thích hợp áp dụng cho bất kỳ trường hợp nào.
- Ranh giới giữa các tình huống thường là rất mong manh. Thường có tranh cãi về một trường hợp nào đó thuộc danh sách này hay danh sách kia. Các danh sách cũng gồm có những tiêu chí mở như “quan trọng” các tình huống khác nhau. Vì vậy, Nhóm làm việc đã liên tục thảo luận về cả 2 vấn đề này cũng với những ý kiến nhận xét nhận được. Nhóm tin rằng các quyết định trong danh sách đều phản ánh những nguyên tắc quốc tế một cách mở nhất có thể và việc quy định cụ thể hơn các tiêu chuẩn mà đáng nghẽ ra phải được giải thích cùng với các thông tin trong mỗi trường hợp lại có tác dụng ngược lại.
- Đã có rất nhiều tranh cãi về việc liệu có nên có danh sách Xanh và liên quan đến danh sách Đỏ, các trường hợp trong Danh sách Đỏ không thể khước từ có nên vẫn có thể khước từ theo quyền tự quyết của các bên. Liên quan đến câu hỏi đầu tiên, Nhóm làm việc vẫn bảo vệ quyết định của mình rằng một bài kiểm tra mang tính chủ quan về việc công bố thông tin sẽ không phải là một tiêu chí hoàn hảo nhưng nên thêm vào một số giải pháp mang tính khách quan. Về câu hỏi thứ hai, kết luận Nhóm làm việc là quyền tự quyết của các bên về vấn đề này cũng có giới hạn.
- 1. Danh sách Đỏ không thể khước từ.
1.1. Có sự giống nhau giữa một bên và trọng tài hoặc trọng tài là đại diện pháp lý của một tổ chức là một bên trong vụ kiện.
1.2. Trọng tài là quản lý, giám đốc hay thành viên của ban quản lý hoặc có những ảnh hưởng kiểm soát tương tự đối với một trong các bên.
1.3. Trọng tài có lợi ích tài chính đáng kể đối với một trong các bên hoặc trong kết quả của vụ kiện.
1.4. Trọng tài thường xuyên tư vấn bên chỉ định hoặc một chi nhánh của bên chỉ định và trọng tài hoặc công ty của trọng tài có thu nhập lợi ích đáng kể từ việc tư vấn này.
- 2. Danh sách Đỏ có thể khước từ.
2.1. Mối quan hệ của trọng tài đối với tranh chấp.
2.1.1. Trọng tài đưa ra tư vấn pháp lý hoặc đưa ra ý kiến chuyên môn về tranh chấp cho một bên hoặc công ty của một trong các bên.
2.1.1. Trọng tài có sự liên quan trước kia với vụ kiện.
2.2. Lợi ích trực tiếp và gián tiếp của trọng tài trong tranh chấp.
2.2.1. Trọng tài có cổ phiếu kể trực kiếp hoặc gián tiếp trong một trong các bên hoặc trong công ty con của một bên.
2.2.2. Thành viên trong gia đình thân thiết của một trọng tài có lợi ích tài chính đáng kể trong kết quả của vụ kiện.
2.2.3. Trọng tài hoặc thành viên gia đình thân thiết3 của trọng tài có mối quan hệ thân thiết với một bên thứ ba có trách nhiệm trông cậy vào phần của bên không thành công trong tranh chấp.
2.3. Mối quan hệ của trọng tài với các bên hoặc luật sư.
2.3.1. Trọng tài hiện đang tư vấn cho một bên hoặc công ty của một bên.
2.3.2. Trọng tài hiện đại diện cho luật sư hoặc một công ty luật hoặc động với tư cách là luật sư cho một trong các bên.
2.3.3. Trọng tài là một luật sư trong cùng một công ty luật với luật sư của một trong các bên.
2.3.4. Trọng tài là quản lý, giám đốc hoặc thành viên ban quản lý hoặc có ảnh hưởng kiểm soát tương tự trong công ty con4 của một bên nếu công ty con đó trự tiếp liên quan đến các vấn đề tranh chấp trong vụ kiện.
2.3.5. Công ty luật của trọng tài có trước kia đã có liên quan nhưng đã kết thúc với vụ kiện mà trọng tài không có liên quan gì.
2.3.6. Công ty luật của trọng tài hiện có mối quan hệ thương mại quan trọng với một bên hoặc công ty con của một bên.
2.3.7. Trọng tài thường xuyên tư vấn bên chỉ định hoặc công ty con của bên chỉ định nhưng cả trọng tài và công ty của trọng tài không có lợi nhuận tài chính đáng kể từ công việc tư vấn này.
2.3.8. Trọng tài có mối quan hệ gia đình thân thiết với một bên hoặc với quản lý, giám đốc hay thành viên của ban quản lý hay bất kỳ người nào có khả năng kiểm soát tương tự ở một bên hoặc tại công ty con của một bên hoặc với một luật sư đại diện cho một bên.
2.3.9. Một thành viên gia đình thân thiết của trọng tài có lợi ích tài chính lớn ở một bên hoặc công ty con của một bên.
- 3. Danh sách Cam.
3.1. Các dịch vụ trước kia đối với một bên hoặc những liên quan khác trong vụ kiện.
3.1.1. Trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại đã là luật sư cho một bên hoặc công ty con của một bên hoặc trước kia đã tư vấn cho hoặc được một bên hoặc công ty con của bên chỉ định tư vấn trong một vấn đề không liên quan nhưng trọng tài và bên đó hay công ty con của bên đó hiện không có mối quan hệ nào.
3.1.2. Trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại đã từng là luật sư chống lại một bên hoặc công ty của một bên trong một vấn đề không liên quan.
3.1.3. Trọng tài trong khoảng 3 năm đã được chỉ định là trọng tài trong 2 hoặc nhiều trường hợp bởi một bên hoặc công ty con của bên đó5.
3.1.4. Công ty luật của trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại đã cung cấp dịch vụ cho một bên hoặc công ty con của một bên về một vấn đề không liên quan nhưng không có sự tham gia cả trọng tài.
3.1.5. Trọng tài hiện nay hoặc trong khoảng 3 năm trở lại là trọng tài trong một vụ kiện khác về một vấn đề liên quan đến một bên hoặc công ty con của một bên.
3.2. Cung cấp dịch vụ cho một trong các bên.
3.2.1. Công ty luật của trọng tài hiện đang cung cấp dịch vụ cho một trong các bên hoặc cho công ty con của một bên mà không có mối quan hệ thương mại lớn nào và không có sự tham gia của trọng tài.
3.2.2. Một công ty luật chia sẻ doanh thu hoặc phí với chứng từ luật của trọng tài đang cung cấp dịch vụ cho một bên hoặc công ty con của một bên trước Hội đồng trọng tài.
3.2.3. Trọng tài hoặc công ty của trọng tài đại diện cho một bên hoặc công ty con của một bên trong vụ kiện một cách thường xuyên nhưng không liên quan trong tranh chấp hiện tại.
3.3. Mối quan hệ giữa trọng tài và một trọng tài khác hay với luật sư.
3.3.1. Một trọng tài và một trọng tài khác là luật sư trong cùng một công ty luật.
3.3.2. Một trọng tài này và một trọng tài khác hoặc luật sư cho một bên đều là thành viên của một văn phòng luật sư6.
3.3.3. Trọng tài trong khoảng 3 năm trở lại là đối tác của một trọng tài khác hoặc bất kỳ một luật sư nào trong vụ kiện.
3.3.4. Một luật sư trong công ty luật của trọng tài là một trọng tài trong một tranh chấp khác liên quan đến cùng một hoặc các bên hoặc một công ty con của một bên.
3.3.5. Một thành viên gia đình thân thiết của trọng tài là đối tác hoặc nhân viên của công ty luật đại diện cho một bên, nhưng thành viên này không tham gia vào tranh chấp.
3.3.6. Có mối quan hệ cá nhân thân thiết giữa trọng tài và luật sư của một bên như đã nói là trọng tài và luật sư thường dành khá nhiều thời gian với nhau mà không có liên quan đến công viêc chuyên môn hay các hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp hay các tổ chức xã hội.
3.3.7. Trọng tài trong vòng 3 năm trờ lại nhận hơn 3 sự chỉ định của chùng một luật sư hay một công ty luật.
3.4. Mối quan hệ giữa trọng tài và một bên và những người khác liên quan trong vụ kiện.
3.4.1. Công ty luật của trọng tài đang cung cấp những dịch vụ chống lại một bên hoặc công ty con của một bên.
3.4.2. Trọng tài trong vòng 3 năm trở lại đã cộng tác với một bên hoặc công ty con của một bên với tư cách là một nhân viên cũ hoặc một đối tác.
3.4.3. Có một mối quan hệ thân thiết giữa trọng tài với một quản lý, một giám đốc, một thành viên ban quản lý hay bất kỳ người nào có khả năng kiểm soát tương tự ở một bên hoặc công ty con của một bên hoặc là nhân chứng, giám định viên. Trọng tài và các giám đốc, quản lý những người khác, nhân chứng và giám định viên thường xuyên dành nhiều thời gian với nhau mà không liên quan đến các cam kết công việc chuyên môn hay những hoạt động của các hiệp hồi nghề nghiệp hay các tổ chức xã hội.
3.4.4. Nếu trọng tài đã từng là một thẩm phán thì trong vòng 3 năm trở lại người này đã tham gia một vụ kiện liên quan đến một trong các bên.
3.5. Các trường hợp khác.
3.5.1. Trọng tài có cổ phần trực tiếp hoặc gián tiếp mà vì lý do số lượng hay sự giảm giá số cổ phiếu này trở thành một phần đáng kể ở một bên hoặc công ty con của một bên được niêm yết công khai.
3.5.2. Trọng tài công khai ủng hộ một vị trí cụ thể liên quan đến vụ kiện đang được xywr bằng phương pháp tố tụng trọng tài trong một ấn phẩm hoặc một bài phát biểu đã được xuất bản hoặc bằng chững cách khác.
3.5.3. Trọng tài giữ một vị trí trong một tổ chức trọng tài với quyền chỉ định trong tranh chấp.
3.5.4. Trọng tài là quản lý, giám đốc hay thành viên của ban quản lý hoặc có quyền kiểm soát tương tự trong một coocn tyw con của một bên trong đó công ty con này không trực tiếp liên quan đến các vấn đề tranh chấp trong vụ kiện tố tụng trọng tài.
- 4. Danh sách Xanh.
4.1. Các quan điểm pháp lý đã được thể thiện trước đây.
4.1.1. Trọng tài trước đây đã xuất bản quan điểm chung (ví dụ như trong một bài báo về luật hay một bài thuyết trình trươc công chúng) liên quan đến một vấn đề cũng phát sinh trong vụ kiện tố tụng trọng tài (những quan điểm này không tập trung vào vụ kiện đang được giải quyết bằng phương pháp tố tụng trọng tài).
4.2. Các dịch vụ trước kia chống lại một bên.
4.2.1. Công ty luật của trọng tài từng hoạt động chống lại một bên hoặc công ty con của một bên trong một vấn đề không liên quan và không có sự tham gia của trọng tài.
4.3. Các dịch vụ hiện nay cho một bên.
4.3.1. Một công ty trong một hiệp hội hoặc một liên minh với công ty luật của trọng tài nhưng không chia sẻ phí hoặc các khoản doanh thu khác với công ty luật của trọng tài hiện đang cung cấp dịch vụ cho một bên hoặc công ty con của một bên trong các vấn đề không liên quan.
4.4. Mối liên hệ với một trọng tài khác hoặc với luật sư của một bên.
4.4.1. Trọng tài có mối quan hệ với một trọng tài khác hoặc với luật sư của một bên do đều là thành viên trong một hiệp hội nghề nghiệp hay một tổ chức xã hội.
4.4.2. Trọng tài và luật sư của một bên hay một trọng tài khác đã từng cùng là trọng tài hoặc là đồng luật sư.
4.5. Mối quan hệ giữa trọng tài và một trong các bên.
4.5.1. Trọng tài có mối liên hệ ban đầu với bên chỉ định hoặc một công ty con của bên chỉ định (hay các luật sư danh tiếng) trước khi chỉ định, nếu sự liên lạc này bị giới hạn đến khả năng sẵn sàng của trọng tài và sự phù hợp của trọng tài để có thể làm tốt vai trò này hoặc giới hạn đến những cái tên của một số ứng viên cho vụ trí chủ tịch hội đồng trọng tài và không đề cập đến nội dung về mặt thủ tục trong tranh chấp.
4.5.2. Trọng tài có cổ phần lớn trong một bên hay công ty con của một bên được niêm yết công khai.
4.5.3. Trọng tài và quản lý, giám đốc hay thành viên ban quản lý hay bất cứ người nào có khả năng kiểm soát tương tự trong một bên hay công ty con của một bên đã làm việc cùng nhau như là những đồng giám định viên hay làm các công việc chuyên môn khác bao gồm cả việc làm trọng tài trong cùng một vụ kiện.
Một biểu đồ được đính kèm Hướng dẫn này để người đọc dễ dàng tham khảo việc áp dụng danh sách. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng dây chỉ là sự minh họa dưới dạng biểu đồ về một thực tế vô cùng phức tạp. Các trường hợp cụ thể về các vụ kiện luôn rõ ràng hơn.
Công ty luật Dragon
ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT DRAGON
Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư: Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy: Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai