Thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư

61

 BẢN TỔNG HỢP THẢO LUẬN TẠI HỘI TRƯỜNG

 (Ghi theo băng ghi âm)

 Buổi chiều ngày 19/06/2012

Nội dung:

Thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng chủ trì

Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu chủ trì điều khiển nội dung

Uông Chu Lưu – Phó Chủ tịch Quốc hội

Kính thưa Quốc hội,

Được sự phân công của đồng chí Chủ tịch Quốc hội tôi điều hành phiên họp chiều hôm nay. Theo chương trình kỳ họp chiều hôm nay Quốc hội thảo luận cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư. Dự án luật này đã được các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ ngày 6/6/2012, Đoàn thư ký kỳ họp đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội bản tập hợp và tổng hợp ý kiến thảo luận tổ. Hôm nay đề nghị các vị đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận một số vấn đề sau đây.

Một là về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư, quy định tại Điều 13 của dự thảo luật và vấn đề tập sự hành nghề luật sư, quy định tại Điều 14, Điều 15 của dự thảo luật.

Hai là về quy định cho phép viên chức hành nghề luật sư, quy định tại Khoản 4, Điều 17, đây là vấn đề đang còn nhiều ý kiến khác nhau trong phiên thảo luận tổ.

Ba là về quyền, nghĩa vụ của luật sư, quy định tại Điều 21 của dự thảo luật.

Bốn là về quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư và quy định mở rộng đối tượng được quyền yêu cầu luật sư bào chữa, quy định tại Điều 27 của dự thảo luật.

Năm là về nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn luật sư Việt Nam và đoàn luật sư, quy định tại các Điều 60, Điều 61 và Điều 65.

Sáu là về điều kiện hành nghề, phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam quy định các Điều 68, 70, 74 và 76.

Bây giờ xin mời các vị đại biểu đăng ký và phát biểu ý kiến.

Nguyễn Minh Kha – TP Cần Thơ

Kính thưa Quốc hội,

Trước tiên tôi đồng tình với Báo cáo tiếp thu, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tư pháp và dự luật bổ sung, sửa đổi lần này. Đây còn là quan điểm thể chế đường lối của Đảng và Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, phù hợp với quy luật phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn 6 năm qua hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư trong cả nước đã đóng góp tích cực và hiệu quả vào hoạt động của các cơ quan tố tụng. Luật sư tham gia giúp cho quá trình điều tra, xét xử của các cơ quan tố tụng đảm bảo khách quan, thận trọng, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tạo môi trường pháp lý thuận lợi. Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên rất đáng trân trọng, hoạt động của tổ chức luật sư trong cả nước thời gian qua còn rất bất cập. Sau khi ban hành luật năm 2006 đội ngũ luật sư từng bước được bổ sung nhưng còn nhiều mặt hạn chế.

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ năng khi hành nghề luật sư, nhất là kỹ năng ứng xử nghề nghiệp chưa thực sự chuyên nghiệp. Luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án cũng rất nghiêm tốn, án hình sự chiếm 21,4%, án hôn nhân gia đình chiếm 6,8%. Từ thực tế nêu trên, tôi xin đóng góp vào dự thảo một số nội dung cụ thể sau đây:

Điều 6 nguyên tắc quản lý luật sư hành nghề, Luật luật sư quy định chỉ quản lý hành nghề luật sư, dự thảo sửa đổi lần này bổ sung thêm chức năng quản lý luật sư. Đây là 2 khái niệm khác nhau, luật phải quy định cụ thể tránh trùng giẫm giữa tổ chức hành nghề luật sư và quản lý luật sư.

Điều 9 về các hành vi bị nghiêm cấm, ở Khoản b có ghi: Cấm xúi giục khách hàng khiếu nại trái pháp luật. Thực tế địa phương trong những năm qua tình hình khiếu kiện ngày càng diễn biến phức tạp, tập trung khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai chiếm trên 70% các vụ khiếu kiện, chủ yếu là lĩnh vực bồi hoàn, giải tỏa, tái định cư. Từ chủ trương của Trung ương, chính quyền địa phương đã tập trung giải quyết, kiên quyết không để hình thành điểm nóng. Tuy nhiên, nhiều vụ việc địa phương đã giải quyết đúng quy trình, bà con đến phòng tiếp dân khiếu kiện, Văn phòng tiếp dân xem xét và giải quyết như địa phương là thỏa đáng. Một số ít luật sư lợi dụng vấn đề bức xúc của bà con với động cơ cá nhân tiếp tục hướng dẫn bà con đi Trung ương khiếu kiện.

Từ thực tế trên cho thấy luật sư từ người bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân trở thành người cầm đầu khiếu kiện. Tôi thiết nghĩ trách nhiệm của Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư và ngành tư pháp phải xử lý nghiêm trước một bước trước khi cơ quan chức năng xem xét các dấu hiệu hình sự.

Điều 12 thời gian đào tạo luật sư, luật hiện hành quy định thời gian đào tạo luật sư là 6 tháng. Dự luật sửa đổi lần này quy định 12 tháng, về cơ bản tôi đồng tình kéo dài thời gian đào tạo nhằm nâng cao chất lượng luật sư. Tôi được biết 100% người xin đào tạo luật sư đều tốt nghiệp Đại học luật, cái họ cần là đạo đức, kỹ năng hành nghề luật sư và nhất là nghiệp vụ chuyên sâu của nghề. Tuy nhiên, không được lợi dụng quyền tự do dân chủ, bảo vệ công lý để hành nghề trái pháp luật.

Điều 13 người được miễn đào tạo hành nghề luật sư. Điều này tôi đề nghị giữ nguyên như luật hiện hành vì dự thảo sửa đổi lần này quy định các chức danh khác như công chứng viên, chấp hành viên v.v… được miễn đào tạo hành nghề luật sư. Các chức danh trên thuộc chức năng tư pháp, không thuộc chức năng tố tụng. Thực trạng hiện nay cả nước đang thiếu luật sư, tôi đề nghị Bộ tư pháp xem xét mở lớp đào tạo đáp ứng nhu cầu không để thiếu luật sư mà mở rộng đối tượng được miễn, hạ thấp chất lượng luật sư. Muốn đăng ký hành nghề luật sư phải được bồi dưỡng nghiệp vụ ít nhất là 6 tháng, nếu được như vậy đội ngũ luật sư mới có chất lượng đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng theo dự luật thời gian miễn là 5 năm, kể từ ngày đảm nhận chức danh đối tượng được miễn là quá dài, nên quy định 2 năm là phù hợp.

Một là thực tế hiện nay các đối tượng được miễn đào tạo từ khi thôi đảm nhiệm chức danh họ thường đăng ký ngay để hành nghề luật sư.

Hai là cuộc sống luôn vận động và phát triển, luật pháp luôn điều chỉnh thay đổi. Do vậy, thời gian 2 năm là phù hợp để chuyển đổi nghề mới.

Điều 14, tập sự hành nghề luật sư, theo dự luật hiện hành và trong thực tiễn thời gian qua tập sự là 18 tháng, trong dự thảo luật là 12 tháng. Theo tôi giữ nguyên như luật hiện hành để tạo điều kiện tập sự có thời gian va chạm thực tế, học hỏi kỹ năng hành nghề giúp cho hành nghề chính thức đủ bản lĩnh, trình độ nghiệp vụ chúng ta giảm thời gian thực tập xuống 6 tháng và tăng thời gian đào tạo là 12 tháng là không phù hợp. Thời gian tập sự luật sư hướng dẫn là rất quan trọng, phải ít nhất là 3 năm kinh nghiệm hành nghề luật sư, hiện nay nhiều luật sư chính thức được công nhận, nhưng sau 3 năm thậm chí 5 năm họ không hành nghề chính thức nhưng vẫn thực tập. Tôi đề nghị dự luật quy định chặt chẽ hơn, luật sư sau 3 năm hành nghề thực thụ chính thức có công việc nhất định mới được nhận người thực tập. Quy định này đảm bảo chất lượng cho người thực tập hành nghề luật sư.

Điều 21 quyền và nghĩa vụ của luật sư tham gia bào chữa đúng quy định của pháp luật, xã hội đang sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, nhu cầu tranh tụng là một thực tế, Luật luật sư lần này cần quy định cụ thể luật sư tham gia phiên tòa thời gian không ít trường hợp tự bỏ ra ngoài tranh tụng hoặc rời khỏi phòng xử án trước khi kết thúc phiên tòa, tôi đề nghị luật cần có qui định chế tài này.

Công tác quản lý tòa án và luật sư ở địa phương chưa chặt chẽ kể cả công tác quản lý Nhà nước của ngành tư pháp. Do vậy, phải nhằm hoàn thiện Liên đoàn luật sư Việt Nam phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng tư pháp với chức năng quản lý tổ chức xã hội và xã hội nghề nghiệp. Bộ tư pháp cần giao quyền tự chủ cho Liên đoàn luật sư cụ thể hóa bằng điều lệ liên đoàn qui định, chỉ đạo Sở tư pháp kiểm tra, giám sát tác động thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương. Tôi xin hết ý kiến, cảm ơn Quốc hội.

Trương Trọng Nghĩa – TP Hồ Chí Minh

Kính thưa Quốc hội.

Tôi xin phép được thông báo cơ bản Liên đoàn luật sư Việt Nam đại diện cho 10.000 luật sư chính thức và người tập sự luật sư nhất trí cao với dự thảo. Tôi xin cung cấp một số thông tin hy vọng gợi mở cho một số suy nghĩ của các vị đại biểu

Theo Luật luật sư hiện hành và theo dự thảo thì việc quản lý luật sư theo nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước và tự quản thông qua tổ chức xã hội nghề nghiệp và Liên đoàn luật sư và các đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hiện nay về phía Nhà nước những khâu sau đây Nhà nước vẫn nắm, thành lập mới các đoàn luật sư, phê duyệt kết quả bầu ban chủ nhiệm nơi đại hội hàng năm. Phê duyệt việc chuẩn bị nhân sự và kết quả bầu nhân sự, phê duyệt điều lệ của Liên đoàn luật sư. Đào tạo nghề luật sư, tổ chức thi tốt nghiệp tập sự cấp chứng chỉ hành nghề luật sư như là điều kiện bắt buộc đầu tiên để được kết nạp vào đoàn luật sư.

Sở tư pháp cấp phép thành lập các tổ chức hành nghề ở mỗi địa phương. Giám sát thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc rút giấy phép của tổ chức hành nghề luật sư nếu có vi phạm. Còn về phía tự quản thì Liên đoàn luật sư Việt Nam chịu trách nhiệm được tham gia đào tạo nghề, tổ chức tập sự nghề luật sư, ban hành sửa đổi bổ sung điều lệ nhưng phải thông qua phê duyệt của Bộ tư pháp. Ban hành quy cách đạo đức ứng xử nghề nghiệp, xử lý kỷ luật, khen thưởng, cấp thẻ và thu hồi thẻ luật sư. Nếu luật sư bị Bộ Tư pháp rút chứng chỉ hành nghề luật sư thì liên đoàn bắt buộc phải thu hồi thẻ.

Tôi muốn nói theo thông lệ của nghề luật sư ở nước ta và trên thế giới thì việc quản lý luật sư thì không phải bằng cách đưa mọi quy định vào Luật luật sư. Ngoài Luật luật sư thì Chính phủ còn ban hành một số nghị định, quyết định để cụ thể hóa Luật luật sư. Bằng việc tự quản, thông qua điều lệ và quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp thì các luật sư tự giám sát lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp có những vi phạm không xử được bằng luật nhưng người vi phạm vẫn có thể bị xử lý kỷ luật nội bộ của đoàn luật sư rất nghiêm khắc.

Về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa. Vấn đề là thủ tục này thực tế và trong nhiều trường hợp đã vô hiệu quyền của người bị tạm giữ, tạm giam được có luật sư ngay từ khi mất tự do hay là từ khi bị khởi tố. Chính ở giai đoạn này là lúc họ cần có luật sư nhất. Chẳng những ở các nước phương Tây vừa qua, Trung Quốc trước kia cũng giống chúng ta thì nay phải sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng cho công dân được quyền có luật sư tư vấn riêng biệt ngay từ giai đoạn xâm phạm tự do. Cho nên chúng tôi kiến nghị không cấp giấy chứng nhận bào chữa mà chỉ cần một số thủ tục như chúng tôi vừa nói.

Về việc công chức, viên chức hành nghề luật sư.

Chúng tôi ủng hộ việc cho phép các giảng viên dạy luật tham gia hành nghề. Vì thật vô lý khi mình dạy người là làm những điều mà mình chưa hề làm. Giống như người đào tạo bác sĩ mà chưa hề biết chữa bệnh.

Cần hạn chế việc miễn học lớp đào tạo và tập sự. Chỉ nên áp dụng cho những người đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên hoặc điều tra viên. Các giảng viên hay các nhà khoa học luật nếu muốn làm luật sư thì có thể miễn học lớp đào tạo nhưng không nên miễn tập sự. Trong việc đào tạo nghề luật sư thì tập sự là quan trọng nhất. Sau 4 năm học đại học, các cử nhân luật được trao cho rất nhiều kiến thức lý thuyết. Việc đào tạo cử nhân luật cũng đã cải tiến, do đó cái mà người tập sự thiếu chính là kỹ năng hành nghề thực tiễn. Do đó, chúng tôi đề nghị giữ nguyên thời gian tập sự 18 tháng và học lớp đào tạo thì chỉ 6 tháng, sau khi họ học 4 năm dùi mài kinh sử ở các trường đại học.

Về cấp thẻ luật sư, việc ra đời Liên đoàn luật sư Việt Nam và trao việc cấp thẻ cho liên đoàn đã chấm dứt tình trạng mà Bộ trưởng Bộ tư pháp Hà Hùng Cường đã từng nhận xét, hiện nay liên đoàn đã cấp thẻ cho hơn 7000 luật sư cả nước theo một mẫu thẻ thống nhất với những yêu cầu và điều kiện thống nhất. Sự thống nhất này phù hợp với Luật luật sư vì luật sư là thành viên của liên đoàn nên họ có quyền yêu cầu liên đoàn cấp thẻ. Việc liên đoàn cấp thẻ bảo đảm cho các luật sư có tư cách hành nghề như nhau trên toàn quốc không phụ thuộc, họ được kết nạp tại đoàn luật sư của tỉnh nào. Sự thống nhất này còn giúp khắc phục tình trạng trước đây khá phổ biến là luật sư bị kỷ luật ở đoàn này thì chạy xin ra nhập ở đoàn khác và cũng giúp quản lý tốt hơn tệ nạn thẻ giả hay luật sư giả. Nếu cần cơ quan tổ chức và cá nhân chỉ cần liên hệ với liên đoàn vì việc xác minh ở các đoàn luật sư tỉnh nhất là ở tỉnh xa rất nhiêu khê.

Với việc tự quản thông qua điều lệ và quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp, việc liên đoàn cấp thẻ cũng giúp cho việc quản lý chất lượng đạo đức và việc hành nghề luật sư được đồng bộ, tập trung và thống nhất. Theo Luật luật sư, luật sư có quyền hành nghề trên toàn quốc và cả ở nước ngoài, với thẻ luật sư do liên đoàn cấp thì việc hành nghề luật sư ở nước ngoài cũng thuận lợi hơn khi xuất trình thẻ của liên đoàn. Bởi vì Liên đoàn luật sư Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức luật sư quốc tế. Ngạn ngữ phương tây có câu “đừng sửa những gì đang chạy tốt” việc cấp thẻ luật sư của liên đoàn vừa đúng luật vừa có hiệu quả tốt vậy không nên sửa và lập lại tình trạng trong việc cấp thẻ.Vừa qua liên đoàn cũng nhận được nhiều ý kiến của các đoàn luật sư và luật sư đề nghị giữ nguyên quy định này.

Hiện nay, các đoàn luật sư đang có nhiệm vụ tự quản cũng khá nặng, tổ chức sinh hoạt học tập giúp đỡ nhau cho các luật sư trong đoàn, quản lý việc tập sự nghề luật sư và kết nạp luật sư tốt nghiệp tập sự. Làm thủ tục đề nghị liên đoàn cấp thẻ giám sát và xử lý kỷ luật giải quyết khiếu nại, tố cáo của khách hàng đối với luật sư. Liên đoàn không trực tiếp xử lý kỷ luật mà chỉ phúc tra, phúc thẩm, do vậy chừng ấy công việc tự quản ở các đoàn luật sư chúng tôi cho là khá nhiều. Xin cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Thanh Hồng – Bình Dương

Kính thưa Quốc hội,

Về cơ bản tôi nhất trí với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp. Tôi xin tham gia một số vấn đề sau:

Một, về thời gian đào tạo nghề luật sư. Hiện nay theo chương trình đào tạo 6 tháng ngoài việc học viên học các kỹ năng cơ bản về hành nghề luật sư, học viên được thực hành ngay tại cơ sở đào tạo bằng các hình thức diễn án, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý tại Trung tâm tư vấn pháp luật của cơ sở đào tạo. Với chương trình học 6 tháng thì học viên sau khi tốt nghiệp về cơ bản được trang bị những kỹ năng hành nghề luật sư. Tuy nhiên, do thời gian đào tạo ngắn nên hạn chế thời gian bố trí học viên đi thực tập, thực tế tại các tổ chức hành nghề luật sư, tại các cơ quan tố tụng và các trung tâm trợ giúp pháp lý. Theo đánh giá của các giảng viên trực tiếp làm công tác đào tạo luật sư của học viên thì nội dung đào tạo cơ bản là phù hợp nhưng lượng kiến thức khá lớn, thời gian đào tạo ngắn nên gây áp lực cho người học và người dạy.

Theo quan điểm của tôi, do thời gian đào tạo là 6 tháng nên chỉ đủ thời gian học kỹ năng nghề trên giảng đường mà ít có điều kiện thực hành trong môi trường hành nghề luật sư. Vì vậy, với thời gian đào tạo là 12 tháng sẽ có điều kiện thực hành nghề nhiều hơn. Đồng thời với thiết kế chương trình tăng thời lượng thực hành thì có thể rút ngắn thời gian tập sự hành nghề. Với các lý lẽ nêu trên việc tăng thời gian đào tạo lên 12 tháng là cần thiết và phù hợp.

Hai, về tập sự hành nghề luật sư. Theo quy định của dự thảo luật, để được hành nghề luật sư người tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư phải qua một thời gian thực tập hành nghề, được một luật sư hướng dẫn và phải được Hội đồng do Liên đoàn luật sư Việt Nam thành lập kiểm tra đánh giá kết quả tập sự. Thảo luận ở tổ phần lớn các ý kiến đều cơ bản đồng tình với dự thảo luật. Theo quan điểm cá nhân tôi cần thay đổi quy định tập sự hành nghề luật sư bằng quy định luật sư tập sự bởi các lý do sau:

Thứ nhất, như phân tích ở trên việc tăng thời gian đào tạo, tăng thời gian thực hành nghề sẽ khẳng định giá trị của chứng chỉ đào tạo nghề. Vì vậy, sau khi tốt nghiệp học viên có đủ khả năng để trở thành luật sư. Đây cũng là mục tiêu của việc đào tạo nghề luật sư.

Thứ hai, nghiên cứu nội dung Điều 14 dự thảo Luật luật sư thì việc tập sự hành nghề luật sư tương tự như tập sự công chức, viên chức. Quy định luật sư tập sự sẽ thống nhất với các quy định của Luật công chức, viên chức về vấn đề này và thống nhất với việc đào tạo các chức danh tư pháp khác.

Lý do thứ ba, thực tế việc tập sự hành nghề luật sư hiện nay còn nặng tính hình thức, thiếu hiệu quả vì nhiều lý do cả về người tập sự và người hướng dẫn, nếu thực hiện theo chế độ luật sư tập sự thì sẽ nâng cao được trách nhiệm trong việc hướng dẫn đánh giá kết quả tập sự của đoàn luật sư tổ chức hành nghề luật sư, của luật sư hướng dẫn và của chính luật sư tập sự. Đặc biệt là luật sư tập sự được trực tiếp hoạt động nghề nghiệp nhất định, tuy có giới hạn về phạm vi hoạt động nhưng địa vị pháp lý của luật sư tập sự sẽ cao hơn người tập sự hành nghề luật sư.

Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận tại tổ của các đại biểu Quốc hội, của Chính phủ cho rằng người tập sự hành nghề luật sư chưa phải là luật sư nên không thể gọi là luật sư tập sự, việc quy định luật sư tập sự được tham gia tranh tụng tại phiên tòa là mâu thuẫn với hệ thống pháp luật về tố tụng hiện nay. Quan điểm này theo tôi chưa thực sự thuyết phục, vì chế định luật sư tập sự được quy định trong Pháp lệnh về luật sư trước đây còn việc quy định cho luật sư tập sự tham gia tranh tụng tại phiên tòa hay không là căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành. Trong tương lai khi sửa các luật về tố tụng căn cứ vào yêu cầu thực tiễn, yêu cầu của cải cách tư pháp có thể quy định cho phù hợp. Ngoài ra nếu thay thế chế định tập sự hành nghề luật sư bằng chế định luật sư tập sự sẽ góp phần khắc phục tình trạng thiếu hụt số lượng luật sư hiện nay. Đồng thời phù hợp với quan điểm của Ủy ban Tư pháp nêu trong báo cáo thẩm tra là đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung quy định về phân loại đối với luật sư hoặc danh hiệu riêng của luật sư phù hợp với năng lực, trình độ và uy tín xã hội của từng luật sư, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng cũng như hành nghề.

Lý do thứ tư, xuất phát từ mục đích của việc sửa đổi quy định về tập sự hành nghề luật sư trong luật hiện hành là nhằm khắc phục những bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện và để nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư. Do đó dự thảo luật quy định cho phép người tập sự được luật sư hướng dẫn thực hiện một số công việc khi khách hàng đồng ý nhưng không được bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự đại diện cho khách hàng tại phiên tòa và ký văn bản tư vấn pháp luật. Nếu quy định như dự thảo luật theo tôi chỉ là quy định mang tính nửa vời vì thực chất trong thời gian tập sự người hành nghề tập sự luật sư cũng chỉ làm những công việc không khác gì với thực tập trong quá trình đào tạo luật sư. Tính nửa vời còn được thể hiện trong việc quy định người hành nghề luật sư được làm một số việc, nếu được luật sư hướng dẫn đồng ý và được khách hàng chấp thuận. Quy định như vậy là không khả thi, bởi lẽ người tập sự không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của luật sư hướng dẫn mà còn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của khách hàng mới có thể làm được những việc mà luật quy định. Ngoài ra, việc quy định người tập sự hành nghề luật sư được cùng đi với luật sư hướng dẫn gặp gỡ người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo, người bị hại dễ dẫn đến gây ảnh hưởng đến quá trình hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoạt động của cơ quan điều tra.

Lý do thứ năm, ngoài ra việc giao cho liên đoàn luật sư tổ chức kiểm tra kết quả hành nghề và Bộ tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề thay cho quy định hiện hành là Bộ tư pháp tổ chức kiểm tra cấp chứng chỉ là không đảm bảo nguyên tắc về quản lý Nhà nước trong giáo dục và dạy nghề và chưa đảm bảo các yêu cầu trong thực hiện cải cách hành chính.

Tôi đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp về đối tượng được miễn đào tạo nghề, việc quy định cho phép viên chức làm công tác giảng dạy luật được kiêm nhiệm hành nghề luật sư. Tôi không có thời gian để phân tích sâu về vấn đề này, nhưng tôi đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp. Đồng thời đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát cả về nội dung và kỹ thuật văn bản của dự thảo luật đảm bảo chính xác về nội dung và sự thống nhất về thể thức và cách thể hiện văn bản. Xin cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Hữu Hùng – Tiền Giang

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa Quốc hội,

Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư, tôi tán thành với quan điểm phạm vi sửa đổi, bổ sung của luật này theo Tờ trình của Chính phủ, thống nhất với một số ý kiến đã được lưu trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp và qua nghiên cứu ý kiến dự kiến tiếp thu, giải trình của Chính phủ. Tôi xin tham gia một số ý kiến như sau.

Thứ nhất, về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư ở Điều 13, trong điều này tôi xin tham gia 2 ý.

Ý thứ nhất, tôi tán thành với ý kiến thẩm tra của Ủy ban tư pháp về sự cần thiết phải có giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư, quy định chặt chẽ hơn về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư, nhưng cần phải bảo đảm mặt bằng chung đối với các chức danh tư pháp khác. Đối với những người đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên kể cả thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên sơ cấp thì giữ như quy định hiện hành, tôi thống nhất với ý kiến này.

Đối với công chứng viên, chấp hành viên, thừa phát lại thì tôi nghĩ rằng, về nguyên tắc thì không đưa vào diện được miễn đào tạo nghề luật sư vì họ vẫn chưa qua đào tạo nghề tiến hành tố tụng. Tuy nhiên ở đây cũng có trường hợp trong trường hợp trước đó họ đã được đào tạo và hành nghề luật sư thì cũng có thể miễn.

Thứ hai. Tôi đề nghị bổ sung thêm một loại đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư, nếu người đó đã từng làm giúp việc pháp lý được bổ nhiệm theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý. Theo quy định tại Điều 21 của Luật trợ giúp pháp lý: trợ giúp viên pháp lý là công dân Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn, năng lực, hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức, có bằng cử nhân luật, có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, có thời gian làm công tác pháp luật từ 2 năm trở lên, v.v. Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước được làm việc tại trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, được Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của giám đốc sở tư pháp và hình thức là tham gia với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, v.v., thực hiện đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật.

Như vậy, tôi nghĩ rằng một người đã thôi làm trợ giúp viên pháp lý thì được miễn đào tạo hành nghề luật sư là rất phù hợp. Tôi đề nghị bổ sung đối tượng này.

Ý thứ hai trong điều này là dự thảo luật quy định đối với sĩ quan quân đội công tác trong lĩnh vực pháp luật từ 15 năm trở lên mới được miễn đào tạo nghề luật sư. Tôi đề nghị nghiên cứu để hạ xuống còn 10 năm, vì quy định 15 năm là rất dài. Bởi vì ở đây quy định là 15 năm công tác trong lĩnh vực pháp luật theo tôi là chưa thật rõ ý. Chúng ta nói miệng với nhau thì được, nhưng nói về định nghĩa thì rất khó. Nếu đã là thẩm phán của tòa án quân sự, kiểm sát viên của viện kiểm sát quân sự các cấp hay điều tra viên thì đã thực hiện theo quy định chung như quy định ở trên. Số còn lại thì tôi hiểu đó là những công việc khác gắn với pháp luật như là công tác thanh tra, công tác kiểm tra thì chúng tôi nghĩ rằng với 10 năm hoạt động trong lĩnh vực này là phù hợp có thể được miễn đào tạo nghề luật sư.

Mặt khác, báo cáo với Quốc hội là số này chỉ có sau khi thôi phục vụ tại ngũ mới được hành nghề, theo qui định của Luật cán bộ công chức và Luật sỹ quan Quân đội nhân dân, chứ trong quá trình đã là sỹ quan quân đội thì không được làm việc này. Chính vì thế tôi thấy chỗ này đề nghị rút xuống 10 năm là phù hợp. Ý kiến thứ nhất.

Ý kiến thứ hai, về tập sự hành nghề luật sư. Liên quan đến qui định người được giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư qui định tại Điều 16. Ở đây trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều thì Điều 16 không có sửa đổi, cho nên việc xác định các nhóm đối tượng được miễn, giảm cần phải được tính toán kỹ cho phù hợp với Điều 13, bảo đảm sự chặt chẽ giữa hai điều luật.

Theo qui định tại Điều 16 chỉ miễn tập sự đối với thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên, giáo sư, phó giáo sư chuyên về luật, tiến sỹ luật đã làm thẩm tra viên cao cấp, kiểm tra viên cao cấp, chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật. Tôi tán thành với những điều này và tuy nhiên trong này tôi đề nghị bổ sung chỗ về miễn tập sự hành nghề luật sư để thêm đối tượng là trợ giúp viên pháp lý. Ý kiến thứ hai.

Ý kiến thứ ba, về những công việc người tập sự hành nghề luật sư được làm theo qui định tại Khoản 3, Điều 14. Theo qui định tại khoản này, người tập sự hành nghề luật sư không được bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đại diện cho khách hàng tại phiên tòa. Tôi cho rằng qui định như trên là quá cứng và như vậy những người thực tập hành nghề luật sư không thể tiến bộ và không thể hành nghề giỏi được. Cho nên để khắc phục tình trạng mà hình thức trong tập sự cũng như đại biểu Thanh Hồng vừa nêu, theo tôi nên cân nhắc phương án thay chế định thực tập hành nghề luật sư bằng luật sư tập sự và trao cho họ một số quyền nhất định. Phương án có thể cho phép người đó thực hiện bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đại diện cho khách hàng tại phiên tòa nếu được luật sư hướng dẫn và đương sự đồng ý. Tôi kiến nghị như vậy, nếu được luật sư hướng dẫn và đương sự đồng ý thì có thể họ sẽ làm được một số việc như vậy.

Ý kiến thứ tư, về qui định cho phép viên chức hành nghề luật sư, ý kiến của tôi tán thành với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban Tư pháp đã nêu trong Báo cáo thẩm tra. Tôi nghĩ rằng vấn đề này đã từng xảy ra và đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, khi thông qua Luật luật sư năm 2006 thì cũng đã thảo luận vấn đề này. Để chuyên môn hóa cao thì không nên quy định cho kiêm nhiệm nhiều việc, mặc dù hiện nay Luật viên chức không có quy định hạn chế vấn đề này, nhưng hành nghề luật sư theo tôi hiểu trong nhiều vụ việc liên quan đến hoạt động của các cơ quan tố tụng nên điều kiện hành nghề nó khó hơn hành nghề của bác sĩ hay hành nghề của những người làm công tác ngành y. Tôi tán thành ý kiến của đại đa số ý kiến của thành viên Ủy ban Tư pháp và không để cho giáo viên luật đi hành nghề luật sư.

Ý kiến thứ năm, về quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư khi tham gia tố tụng hình sự quy định tại Khoản 3, Điều 27 của dự án luật. Tôi tán thành với quy định tại khoản này. Hiện nay theo quy định tại Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định với tính chất là một bộ luật gốc tôi đề nghị trước mắt thực hiện theo quy định của Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự. Sau này trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung của luật chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu và quy định sau. Trên đây là một số ý kiến của tôi. Xin hết. Xin cảm ơn Quốc hội.

Bùi Văn Xuyền – Thái Bình

Kính thưa Quốc hội,

Về mục tiêu của dự thảo luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật luật sư lần này theo tôi phải nhằm đạt được các yêu cầu sau. Để tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn thu hút được mở rộng các đối tượng tham gia hành nghề luật sư để phát triển số lượng luật sư, đồng thời nâng cao chất lượng và đề cao đạo đức nghề nghiệp của luật sư trong tình hình hiện nay. Để góp phần thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển luật sư đến năm 2020 ở nước ta là phải đạt được từ 18.000 đến 20.000 luật sư và bình quân 1 luật sư trên 4.500 dân, cũng phải đạt được 100 luật sư chuyên sâu vào lĩnh vực kinh doanh thương mại, đảm bảo 100% các vụ án hình sự có luật sư tham gia, các chỉ tiêu này hiện nay ở nước ta rất thấp so với khu vực và thế giới.

Mục tiêu thứ hai cần đạt được của lần sửa đổi lần này là phải kiệm toàn về tổ chức đảm bảo thống nhất về tổ chức xã hội nghề của luật sư từ Trung ương đến địa phương, của Liên đoàn luật sư và đoàn luật sư, sự kết hợp hài hòa giữa quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, đưa luật sư phát triển đúng hướng tiếp cận với thông lệ hành nghề luật sư thế giới.

Từ mục đích nêu trên, tôi cơ bản đồng ý với phạm vi, nội dung sửa đổi của dự thảo do Chính phủ trình và những nội dung sửa đổi lần này đã được xem xét cân nhắc trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm thi hành Luật luật sư năm 2006, tính đến sự phù hợp của các luật hiện hành về tố tụng hình sự, dân sự và hành chính. Sau đây tôi tham gia một số nội dung cụ thể:

Về việc cho phép viên chức giảng dạy pháp luật được làm luật sư, tôi hoàn toàn đồng ý với dự thảo luật với những lý do và lập luận trong Báo cáo của Chính phủ là khá đầy đủ, thuyết phục. Việc này nếu được thực hiện thì chúng ta vừa sử dụng đội ngũ giảng viên có kiến thức chuyên sâu về luật được tham gia hành nghề luật sư. Mặt khác, cũng tạo điều kiện để các giảng viên tiếp cận với các vụ việc cụ thể, bổ sung thêm cho bài giảng, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy pháp luật trong nhà trường, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật viên chức hiện hành. Tuy nhiên, giảng viên vừa hoàn thành nhiệm vụ của giảng viên, đồng thời tham gia làm tốt công tác luật sư cần có sự đồng ý chấp thuận của thủ trưởng cơ quan, của hiệu trưởng nhà trường.

Vấn đề thứ hai, việc cấm làm luật sư đối với những người bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, kể cả khi đã được xóa án tích, theo tôi điều này chưa phù hợp với chính sách hình sự của nhà nước ta đã được quy định trong chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật lý lịch tư pháp, người phạm tội khi đã được xóa án tích coi như họ chưa can án, để giúp họ tái hòa nhập cộng đồng, đồng thời chống việc phân biệt đối xử. Luật sư là một nghề hoạt động dựa trên kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề chuyên môn của bản thân, tôn trọng và tuân theo luật pháp là nguyên tắc hoạt động của luật sư, nếu cho rằng luật sư là một nghề đặc biệt đòi hỏi cao về mặt đạo đức là chưa thỏa đáng. Do đó, tôi đề nghị bỏ quy định này trong dự thảo luật.

Về thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư, về cơ bản tôi đồng ý với dự thảo, tiếp tục giảm bớt các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian, tạo thuận lợi cho hoạt động của luật sư. Theo tôi, trong luật chỉ nên quy định mang tính nguyên tắc, còn các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận thì nên quy định trong pháp luật về tố tụng là hợp lý vì luật sư cũng với tư cách là người tham gia tố tụng, điều này được điều chỉnh trong Luật tố tụng. Nếu quy định được như vậy thì chúng ta hạn chế được xung đột pháp luật không đáng có vì một vấn đề do 2 luật điều chỉnh. Về lâu dài theo tôi nên bỏ quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư vì nó hạn chế quyền bào chữa của bị can, bị cáo, một quyền rất quan trọng và không phù hợp với tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của nước ta.

Về Điều 83 trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Tại Điểm b Khoản 2 có ghi: Xây dựng trình Chính phủ chính sách hỗ trợ cho Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn. Theo tôi nên bỏ cụm từ “đặc biệt” vì hiện nay không chỉ có tỉnh Lai Châu chưa thành lập Đoàn luật sư, có thể coi là tỉnh đặc biệt khó khăn. Nhưng còn nhiều tỉnh với số lượng chưa đến 10 luật sư cũng rất cần những chính sách hỗ trợ của nhà nước để duy trì, phát triển hoạt động luật sư ở các tỉnh này. Do đó, chúng ta không nên coi là đặc biệt ở đây.

Tôi đồng tình với một số ý kiến, nhất là ý kiến của đại biểu Đinh Xuân Thảo trong cuộc hội thảo, chúng ta nên thiết kế một chế định luật sư công trong Luật luật sư, tức là luật sư của nhà nước để tham gia xây dựng chính sách, phản biện các chính sách pháp luật và có thể được ủy quyền tham gia tố tụng khi có yêu cầu. Đặc biệt nhà nước cần đầu tư xây dựng đội ngũ luật sư công có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực kinh doanh thương mại để có thể tham gia tố tụng trong các vụ kiện tranh chấp thương mại quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta. Xin hết.

Vi Thị Hương – Điện Biên

Kính thưa Quốc hội,

Qua nghiên cứu dự thảo Luật luật sư, Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật luật sư, Báo cáo số 140 ngày 4/6/2012 của Chính phủ, tôi xin tham gia hai vấn đề sau:

Thứ nhất, về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư tại Điều 13, vấn đề này tôi nhất trí với Báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban Tư pháp và các đại biểu đã phát biểu trước. Theo tôi việc mở rộng đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư như trong dự thảo luật chưa phải là giải pháp căn bản để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư. Giải pháp căn bản để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư phải là nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư. Đội ngũ luật sư phát triển trong thời gian qua đã đáp ứng được một phần yêu cầu của xã hội, tuy nhiên chúng ta chưa thể đòi hỏi có thể có ngay một đội ngũ luật sư hùng hậu về số lượng và tốt về chất lượng trong khi nền kinh tế của nước ta vẫn còn nhiều khó khăn. Luật sư phát triển chủ yếu ở các thành phố lớn còn ở các tỉnh điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, người dân chủ yếu nhờ đến đội ngũ trợ giúp viên pháp lý. Trong khi tố tụng sẽ còn thay đổi, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện, để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp dự thảo luật cần quy định công bằng giữa tất cả các đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư. Phải chăng nên nâng cao chất lượng đào tạo, thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ luật sư hiện nay thay vì mở rộng các đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư chưa phù hợp.

Theo Báo cáo của Chính phủ số luật sư có trình độ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế chỉ chiếm khoảng 1,2%, tôi không đồng tình khi để 2 chức danh công chứng viên và chấp hành viên được miễn đào tạo nghề luật sư. Các chức danh này mặc dù được đào tạo về luật nhưng không được tham gia tố tụng trực tiếp như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán nên không thể đánh đồng việc miễn đào tạo nghề luật sư đối với các chức danh này được. Công chứng viên chủ yếu là thực hiện công chứng, được đào tạo về luật nhưng không được đào tạo nghiệp vụ xét xử, kỹ năng tranh tụng tại tòa nên không thể được miễn đào tạo về nghề luật sư. Chấp hành viên là người thực hiện giai đoạn cuối của tố tụng, không trực tiếp tham gia nghiên cứu giải quyết hồ sơ, không trực tiếp điều tra truy tố xét xử, chấp hành viên chủ yếu dùng biện pháp nghiệp vụ để thi hành phần dân sự của bản án đã có hiệu lực pháp luật, còn phần hình sự lại do cơ quan công an thực hiện nên không thể có kinh nghiệm trong tranh tụng được. Hơn nữa, luật sư được đào tạo về luật và đào tạo về biện luận và kỹ năng tham gia phiên tòa, trong khi chấp hành viên chú trọng đào tạo về Luật thi hành án dân sự và nghiệp vụ thi hành án dân sự vừa không được tham gia tố tụng, vừa không được đào tạo về kỹ năng để làm luật sư thì cho dù có được miễn đào tạo, nhưng khi tham gia tập sự cũng không có nền tảng, kiến thức cơ bản để tập sự.

Điều 13 cũng cần phải quy định rõ đối với chức danh thẩm tra viên chính trong cơ quan tòa án được miễn đào tạo nghề luật sư, nhưng thẩm tra viên chính của cơ quan thi hành án thì không thể miễn đào tạo nghề luật sư được. Bởi vì hiện nay thẩm tra viên của cơ quan tòa án được đào tạo như đối với kiểm sát viên, thẩm tra thời gian đào tạo 1 năm và chủ yếu học về nghiệp vụ xét xử. Còn chức danh thẩm tra viên của cơ quan thi hành án thì lại được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thi hành án dân sự và thời gian đào tạo chỉ có 6 tháng.

Thứ hai, về vấn đề bỏ cấp giấy chứng nhận người bào chữa đối với luật sư bào chữa. Tôi đồng tình với loại ý kiến thứ nhất trong giải trình của Báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp vẫn phải cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư, bởi lẽ giấy chứng nhận bào chữa là mối liên hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư khi cấp giấy chứng nhận bào chữa là cơ quan tiến hành tố tụng đã loại trừ những trường hợp luật sư không đủ điều kiện tham gia bào chữa bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo đảm bảo để luật sư có mặt tại tòa theo giấy triệu tập của tòa án nên không thể bỏ cấp giấy chứng nhận bào chữa đối với luật sư.

Cuối cùng, tôi rất mong Luật luật sư ra đời đội ngũ luật sư sẽ góp phần đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn.

Đặng Công Lý – Bình Định

Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,

Kính thưa Quốc hội,

Theo dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư, tôi xin phát biểu một số vấn đề sau.

Thứ nhất, về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư, theo Điều 13 và tập sự hành nghề luật sư theo Điều 14 và 15, theo dự thảo luật sửa đổi theo hướng quy định chặt chẽ hơn về điều kiện được miễn đào tạo nghề luật sư và thu hẹp các đối tượng miễn đào tạo và tập sự hành nghề luật sư. Theo Điều 13 dự thảo: Điều kiện miễn đào tạo luật sư nhưng phải đảm bảo mặt bằng chung với các chức danh tư pháp khác và có sự phân định phù hợp với các loại chức danh tư pháp. Các đối tượng như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên đã có thời gian công tác được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, trải qua thực tiễn công tác nhất định thì theo tôi không nên quy định phải có thời gian 5 năm trở lên giữ các chức danh đó mới miễn đào tạo nghề luật sư là không phù hợp. Bởi vì đối với một sinh viên học 5 năm ra trường và về công tác tại ngành tòa án trong thời gian quy định 4 năm trở lên thì mới được đi học lớp nghiệp vụ xét xử. Lớp nghiệp vụ xét xử quy định là 1 năm, tổng cộng là 10 năm, mà khi học về chưa chắc đã được bổ làm thẩm phán sơ cấp mà phải có một quá trình công tác tốt, tiếp tục phấn đấu tốt thì mới được bổ nhiệm. Cho nên trong quá trình nói trên là 10 năm nếu quy định được bổ làm thẩm phán sơ cấp thì trong quá trình đó theo tôi không nên quy định phải có thời gian 5 năm trở lên giữ các chức danh đó mới miễn đào tạo nghề luật sư là không phù hợp. Theo tôi nên bỏ quy định này và các đối tượng trên được miễn đào tạo nghề luật sư.

Đối với các chức danh mà không phải chức danh tố tụng thì cần cân nhắc quy định bắt buộc phải qua thời gian đào tạo nghề luật sư và tập sự hành nghề luật sư. Chẳng hạn, đối với công chứng viên, chấp hành viên, thừa phát lại thì đối với những người này thì họ chưa được đào tạo nghề tiến hành tố tụng, cho nên không nên đưa họ vào diện miễn đào tạo nghề luật sư.

Thứ hai, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư theo Điều 27. Theo tôi tình hình tội phạm hiện nay đang diễn biến phức tạp, các tội phạm về an ninh quốc gia, tội phạm có tổ chức, tội phạm về ma túy, ý thức chấp hành pháp luật việc duy trì quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư như quy định cũ trước đây là cần thiết và đảm bảo các thủ tục tố tụng cần thiết trong vụ án. Luật sư tham gia các vụ án theo luật định do các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu như trường hợp bị cáo phạm tội ở tuổi chưa thành niên, người phạm tội có nhược điểm về thể chất và tinh thần, phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt là tử hình thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu luật sư bào chữa theo luật định, các cơ quan tiến hành tố tụng phải cấp giấy chứng nhận cho luật sư để luật sư thực hiện quyền bào chữa ở các giai đoạn tố tụng như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và để cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ thực hiện quyền từ chối luật sư bào chữa và có thể yêu cầu luật sư khác bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Về mở rộng đối tượng được quyền yêu cầu luật sư bào chữa theo Điều 27 Điểm b, Khoản 3. Về vấn đề này tôi thống nhất như dự thảo, tức là cần mở rộng thêm ngoài người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì người thân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của các đối tượng này cũng có quyền yêu cầu luật sư bào chữa. Nhưng luật chỉ ghi là người thân thì phải chỉ rõ người thân là người nào thì mới tạo điều kiện cho áp dụng pháp luật là thấp nhất.

Việc mở rộng quyền cần bào chữa trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của bị can, bị cáo hoặc người bị tạm giữ, nhất là trong điều kiện các đối tượng này đang bị giam giữ, đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì khó có thể yêu cầu người bào chữa. Do đó, những người này cũng có quyền mời luật sư bào chữa trong trường hợp bị can, bị cáo và người tạm giữ, tôi thấy là phù hợp cho nên cần phải mở rộng các đối tượng này. Tôi có một số ý kiến như vậy, xin hết.

Nguyễn Xuân Thủy – Phú Thọ

Kính thưa Quốc hội,

Về cơ bản tôi nhất trí với dự thảo luật trình Quốc hội kỳ này, tuy nhiên tôi xin góp ý và thảo luận làm rõ 4 nội dung sau đây.

Thứ nhất, về quy định cho phép viên chức là giảng viên giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư, tôi khác ý kiến với đại biểu Nguyễn Hữu Hùng, Đoàn Tiền Giang. Quy định tại Khoản 4, Điều 17 như vậy tôi hoàn toàn tán thành, bởi những lý do Báo cáo tiếp thu, giải trình của Chính phủ đã nêu, ngoài ra xin báo cáo làm rõ thêm.

Một, nếu giảng viên giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư thì chúng ta có thể thu hút những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Là giảng viên giảng dạy pháp luật thì họ có kiến thức chuyên sâu cả về lý luận và thực tiễn, họ có thể là lực lượng luật sư có chất lượng cao, phục vụ tốt cho yêu cầu của xã hội trong tương lai.

Hai, khi được tham gia hành nghề luật sư họ có thể tích lũy vốn kiến thức thực tế phục vụ trở lại cho công tác giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới công tác giảng dạy trong cơ sở giáo dục đại học làm cho các bài giảng trên giảng đường đại học trở nên sinh động, thu hút được sự quan tâm của người học, góp phần không nhỏ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện tốt việc áp dụng pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật mà Quốc hội sắp thông qua tại kỳ họp này.

Ba, giảng viên giảng dạy môn pháp luật được hành nghề luật sư sẽ góp phần phát triển lực lượng luật sư, nâng cao chất lượng luật sư, nâng cao hoạt động tố tụng của luật sư, góp phần không nhỏ cho sự phát triển về kinh tế – xã hội, bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Hơn nữa đối với các giảng viên họ có đủ năng lực, có thời gian, có điều kiện tốt để tham gia hoạt động tố tụng, tôi xin làm rõ vấn đề này như sau.

Về thời gian, định mức lao động của giảng viên hiện nay là 280 tiết/1 năm, tính trung bình là 28 tiết/1 tháng, 7 tiết/1 tuần mà mỗi tiết học kéo dài từ 45-50 phút, tức là 6h/1 tuần, thời gian còn lại họ có thể dành cho nghề luật sư của mình nếu được tham gia. Việc nghiên cứu luật phục vụ cho hoạt động tố tụng cũng chính là việc nghiên cứu và nâng cao trình độ chuyên môn cho giảng viên, nâng cao chất lượng của các công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học.

Về điều kiện hành nghề, do đặc thù của nghề giảng viên họ có thể chủ động bố trí kế hoạch giảng dạy để tham gia vào hoạt động tố tụng. Ví dụ nếu hoạt động tố tụng vào những ngày trùng với tiết học hoặc lịch làm việc thì họ có thể bố trí giảng viên khác giảng dạy thay, có thể cho sinh viên nghỉ và dạy bù vào hôm khác hoặc có thể đổi giờ của giáo viên khác trong tuần đó. Một số ý kiến cho rằng có thể để cho giảng viên giảng dạy pháp luật làm nghề luật sư, có thể xảy ra tình trạng học trò làm thẩm phán, thầy làm luật sư bào chữa thì làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của hoạt động tố tụng, tuy nhiên tôi không đồng nhất với ý kiến này. Theo quy định của Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 quy định tại các Điều 4, 5, 6, 7, 8, 11.

Điều 4 việc xét xử của tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của tòa án quân sự có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng khi xem xét hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.

Điều 5 khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Điều 6 tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

Điều 11 tòa án xét xử theo nguyên tắc xét xử hai cấp.

Vì vậy có thể khẳng định hiện tượng trên sẽ không ảnh hưởng đến việc tố tụng tại tòa án và không gây cản trở của hoạt động tố tụng.

Cuối cùng, cũng như bao người lao động khác trong xã hội, đây là một cơ hội tốt cho giảng viên ở các trường đại học tăng thêm thu nhập của mình.

Hai, về đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư. Tôi hoàn toàn nhất trí với đại biểu Vi Thị Hương – Điện Biên, đại biểu Nguyễn Hữu Hùng – Tiền Giang, Quốc hội xem xét không nên quy định ba chức danh là chấp hành viên, công chứng viên, thừa phát lại được miễn đào tạo nghề luật sư vì các đối tượng này không tham gia vào hoạt động tố tụng. Họ chỉ đảm nhiệm một số lĩnh vực khác mà pháp luật cho phép. Trên thực tế những đối tượng này chưa đảm bảo được trách nhiệm nghề luật sư, tính chuyên môn, nghiệp vụ của nghề luật sư, khả năng tiếp cận về mặt lý luận hoạt động tố tụng nếu không được đào tạo nghề luật sư. Vì vậy, đề đảm bảo chất lượng của mỗi luật sư vào hoạt động tố tụng, tôi đề nghị Quốc hội không nên quy định 3 chức danh là chấp hành viên, công chứng viên và thừa phát lại được miễn đào tạo nghề luật sư.

Ba, về việc cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư qui định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 19, tôi khác với đại biểu Bùi Văn Xuyền của Thái Bình. Điểm c qui định: bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư do bị kết án tội phạm do vô ý tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng do cố ý sau khi chấp hành hình phạt đã được xóa án tích.

Về việc cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư cho các đối tượng nêu trên Quốc hội cũng nên xem xét. Có thể nói luật sư là một nghề của xã hội, luật sư phải là người có uy tín đạo đức, phẩm chất, phải có danh dự nghề nghiệp được xã hội thừa nhận và tôn vinh, là người của công lý, sự công bằng và công cụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, một khi đã phạm tội, đã bị xử lý nhất là các loại tội phạm hoặc vi phạm liên quan đến sự trung thực đạo đức và lỗi cố ý thì nên cân nhắc lại việc cấp lại giấy chứng chỉ hành nghề luật sư cho các đối tượng này.

Thưa Quốc hội, xã hội luôn luôn vận động và phát triển các quan hệ xã hội cũng phát sinh tỷ lệ thuận với nhóm các loại vi phạm, các loại tội phạm cũng ngày càng đa dạng hơn và vi phạm trong hoạt động hành nghề luật sư cũng không tránh khỏi điều này. Vì vậy, tôi đề nghị sửa qui định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 19 như sau: Các trường hợp khác do Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ tư pháp qui định hướng dẫn cụ thể.

Thứ tư, tôi đề nghị Ban soạn thảo cũng sửa đổi bổ sung lại Điều 85 của Luật luật sư năm 2006, tại Điểm c, Khoản 1, Điều 85 qui định: tạm đình chỉ tư cách thành viên đoàn luật sư từ 6 tháng đến 24 tháng. Theo tôi cũng không phù hợp với xã hội hiện thời, bởi lẽ nếu tạm đình chỉ luật sư với tư cách là thành viên của đoàn luật sư thì luật sư có thể không tham gia đoàn luật sư này thì lại tham gia đoàn luật sư khác. Vì vậy, có thể sửa điều này thành sửa Điểm c thành: tạm đình chỉ hành nghề luật sư từ 6 tháng đến 5 năm. Có nghĩa là mức độ đình chỉ hành nghề luật sư sẽ cao hơn với luật cũ là 3 năm. Bởi lẽ nếu qui định như vậy sẽ phù hợp với ngôn ngữ sử dụng trên thế giới và cũng đáp ứng với nhu cầu của xã hội hiện thời. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Tô Văn Tám – Kon Tum

Kính thưa Quốc hội.

Sau khi nghiên cứu dự thảo luật sửa đổi Luật luật sư, tôi xin có mấy ý kiến như sau:

Thứ nhất, sửa đổi lần này thì luật đã mở rộng đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư. Tôi thấy rằng về việc đào tào nghề luật sư chúng ta đào tạo kỹ năng hành nghề, kỹ năng tranh tụng, những đối tượng nào chưa có những kỹ năng này thì phải đào tạo, đối tượng nào mặc dù chưa đào tạo nhưng họ nắm vững kỹ năng này thì được miễn. Ví dụ như thẩm phán hay kiểm sát viên, những đối tượng này qua thực tiễn xét xử và công tố họ nắm rất vững, còn những đối tượng khác chưa được đào tạo về kỹ năng, về hành nghề kỹ năng tranh tụng thì nên đào tạo, cũng giống như ý kiến của các đại biểu trước tôi. Đối tượng nữa đề nghị Ban soạn thảo lưu ý là những người đã từng là luật sư, trước đây chúng ta có luật sư kiêm nhiệm, sau đó không cho nữa thì họ thôi không làm luật sư bây giờ họ quay lại thì có miễn đào tạo, miễn tập sự không. Tôi nghĩ nên miễn cho họ bởi vì họ đã từng là luật sư rồi, có những lý do khác nhau mà họ không làm luật sư nữa bây giờ họ quay lại làm nghề luật sư những đối tượng này cũng nên đưa vào miễn đào tạo, miễn tập sự.

Trong đối tượng miễn đào tạo, miễn tập sự, giảm tập sự tôi thấy hai đối tượng nên miễn cả đào tạo, miễn cả tập sự là thẩm phán và kiểm sát viên, nếu làm luật sư thì miễn luôn cả đào tạo nghề và miễn luôn tập sự.

Thứ hai, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa trong các lĩnh vực hình sự, khi tham gia hành nghề phải có giấy chứng nhận, lần này chúng ta sửa, chúng ta lại thôi không quy định là giấy chứng nhận trong lĩnh vực dân sự nữa, nhưng trong lĩnh vực hình sự vẫn còn phải cấp giấy chứng nhận. Vì sao chúng ta lại chỉ quy định hình sự thôi, mà dân sự lại không phải làm, không phải cấp giấy chứng nhận, việc này phải làm rõ để có cơ sở vì sao khi ta đã cởi thì chúng ta chỉ cần một nửa có nghĩa là mới ở lĩnh vực dân sự mà chưa cởi lĩnh vực hình sự, cần phải phải cung cấp đầy đủ thông tin cho các đại biểu Quốc hội biết để đến kỳ họp sau các đại biểu còn tham gia ý kiến.

Vấn đề nữa tôi thấy rằng chúng ta có đầy đủ các quy định từ việc đào tạo nghề, cấp giấy chứng chỉ hành nghề, cấp thẻ, giấy mời của đương sự v.v… Cuối cùng để làm được bào chữa thì phải có một giấy chứng nhận, liệu có phải như thế thì thêm thủ tục hành chính không? Vấn đề này đề nghị Ban soạn thảo cần phải cân nhắc cho kỹ.

Vấn đề thứ ba là về đoàn luật sư quy định ở Điều 60, tôi thấy lần này bổ sung thêm là việc những đoàn nào có 500 luật sư trở lên thì có thể thành chi hội. Chúng tôi nghĩ cần cân nhắc chỗ này, chi hội luật sư là gì thì trong luật cũng không thấy quy định. Chúng ta có quy định đoàn luật sư là gì, vị trí, nhiệm vụ, chức năng của nó thì có, nhưng khi cho phép thành lập chi hội thì chi hội đó là gì thì trong luật cũng phải quy định. Nếu chúng ta quy định họ có thể thành lập chi hội thì cũng nên có một quy định là chi hội đó là gì trong thành phần đoàn luật sư. Theo tôi không nên quy định thành lập chi hội ở trong luật mà thành lập hay không thành lập thì để điều lệ của đoàn luật sư Việt Nam quy định, chứ chúng ta quy định ra thì cũng không quy định là gì cả, chúng tôi nghĩ không cần thiết và nên để liên đoàn luật sư quy định, có thành chi hội hay không thành lập chi hội thì được quy định trong điều lệ của đoàn luật sư. Xin cảm ơn Quốc hội.

Hà Thị Lan – Bắc Giang

Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,

Kính thưa Quốc hội,

Qua nghiên cứu dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư và Báo cáo giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và thẩm tra của Ủy ban tư pháp. Tôi xin có ý kiến đóng góp vào mấy vấn đề như sau:

Thứ nhất, tại Điều 14, Khoản 3 quy định nội dung tập sự hành nghề luật sư không được đại diện cho khách hàng trước tòa, theo tôi ở nội dung này nên cho phép người tập sự hành nghề luật sư được đại diện cho khách hàng trước tòa hoặc nên quy định cho phép được đại diện, nếu khách hàng đồng ý vì hoạt động đại diện cho khách hàng trước tòa khác với hoạt động bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Hai hoạt động sau chỉ được thực hiện bởi luật sư trong hoạt động tố tụng tại Tòa án, chế định về đại diện nằm trong quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ như vợ ủy quyền cho chồng, con ủy quyền cho cha, mẹ, bạn bè ủy quyền với nhau. Vậy không có lý do gì một người lại không được ủy quyền cho một người có am hiểu về pháp luật. Tuy rằng, tập sự hành nghề luật sư chưa phải là luật sư và dĩ nhiên chưa có thể hành nghề luật sư. Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều người tập sự hành nghề luật sư bởi sự chuyên tâm nên có chuyên môn tốt. Vì vậy, quy định như dự thảo khiến cho người tập sự làm nghề luật sư còn không được làm một việc mà người bình thường có thể làm, đó là hoạt động nhận ủy quyền.

Vậy, cần để khách hàng có quyền lựa chọn và khách hàng biết rõ người tập sự sẽ giúp cho mình tốt nhất là được. Quy định như dự thảo là nhằm để nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý cho khách hàng nhưng lại xâm phạm đến quyền lựa chọn của khác hàng, xâm phạm đến quyền công dân.

Thứ hai, tại Điều 17, Điều 18 quy định sửa đổi theo hướng đối tượng được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư bao gồm cả viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật. Ở nội dung này có 2 loại ý kiến khác nhau. Theo tôi, nếu cho phép viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật tại các cơ sở đào tạo được hành nghề luật sư sẽ góp phần phát huy được trình độ, năng lực pháp luật của đội ngũ giảng viên trong các hoạt động tố tụng cũng như tư vấn pháp luật. Mặt khác, góp phần bổ sung một số lượng luật sư, từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy tích lũy kinh nghiệm, bổ sung vào quá trình giảng dạy.

Tuy nhiên, trong quá trình thảo luận ở tổ cũng như quan điểm cá nhân tôi không tán thành để viên chức hành nghề luật sư, điều này sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động luật sư, tạo ra một bộ phận luật sư viên chức không chuyên tâm vào công việc. Hiện nay Luật luật sư và các văn bản pháp luật có liên quan đều không thừa nhận việc kiêm nhiệm đối với người hành nghề luật sư. Mặt khác, đối với những viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật thì phải đòi hỏi đầu tư thời gian, công sức để vừa đảm bảo đủ thời lượng giảng dạy, vừa đủ số lượng đề tài nghiên cứu khoa học. Như vậy, nếu giảng viên được hành nghề luật sư thì chẳng những ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo mà còn làm cho việc hành nghề luật sư cũng bị ảnh hưởng.

Trên thực tế có những phiên toà kéo dài 20 ngày, nếu làm một giảng viên kiêm nhiệm luật sư thì rất khó để bố trí thời gian tham gia phiên tòa.

Thứ ba, tại Điều 32 quy định về tổ chức hành nghề luật sư, điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư có nội dung: một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương, nơi có đoàn luật sư mà luật sư đó là thành viên. Trong trường hợp luật sư ở các đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty lớn thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi đó có đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên. Quy định này Ban soạn thảo nên xem xét hoặc sửa đổi theo hướng luật sư thuộc một đoàn luật sư tỉnh này được thành lập tổ chức hành nghề trên phạm vi cả nước. Quy định như dự thảo là giữ nguyên như cũ.

Tại sao luật sư được hành nghề tác nghiệp trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam và cả nước ngoài tại Điểm b, c, Khoản 1 Điều 21 mà không được mở công ty, văn phòng ở một tỉnh khác. Quy định như thế quyền hành nghề luật sư với quyền mở công ty, văn phòng có khác gì, tại sao lại không được. Vì sao Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh và Đoàn luật sư Hà Nội chiếm số lượng tới 90% tổng số lượng luật sư cả nước. Theo thống kê đoàn thành phố Hồ Chí Minh có 3075 luật sư, Hà Nội có 1754 luật sư, các tỉnh khác chỉ có từ 3 đến 7 luật sư. Với số lượng đông như vậy, bởi vì nơi đây là trung tâm kinh tế lớn và để được mở công ty, văn phòng nơi đó thì xin gia nhập Đoàn luật sư nơi đó. Do vậy, các tỉnh khác rất ít luật sư, các tỉnh khác bị mất đi nhiều luật sư giống như chảy máu chất xám.

Nếu quy định cho phép luật sư thuộc đoàn luật sư tỉnh này được mở công ty, văn phòng ở tỉnh khác sẽ giúp cho việc phân bổ đồng đều hơn số lượng luật sư trên cả nước. Quy định như dự thảo có ý nghĩa kiểm soát mối quan hệ ràng buộc giữa Đoàn luật sư và tổ chức hành nghề luật sư mà thôi. Xin hết.

Trần Xuân Hùng – Hà Nam

Kính thưa Quốc hội,

Tôi xin có một số ý kiến tham gia ngắn gọn, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về quy định cho phép viên chức hành nghề luật sư theo Khoản 4 Điều 17. Vấn đề này ý kiến của tôi khác so với một số ý kiến của các vị đại biểu vì những lý do sau:

Không phải đến thời điểm này chúng ta mới đặt vấn đề cho phép viên chức hành nghề luật sư mà trước đây ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước chúng ta đã thực hiện đến khi ban hành Luật luật sư năm 2006 chúng ta lại bỏ đi không thực hiện với lý do:

Một trong những yêu cầu đối với luật sư là phải tận tâm, tận lực phục vụ khách hàng của mình, điều này đòi hỏi luật sư phải đầu tư nhiều thời gian cho hoạt động nghề nghiệp. Vì vậy, đội ngũ luật sư kiêm nghiệm thực tế không thể chuyên tâm với nghề nghiệp, không đủ thời gian để đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp, dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Đồng thời, một số trường hợp gây phiền hà cho cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là công tác xét xử của tòa án. Điều cơ bản hơn là sự kiêm nghiệm cho hoạt động luật sư sẽ có nhiều khả năng ảnh hưởng không tốt tới sự vô tư, khách quan trong khi thực hiện các dịch vụ pháp lý. Nay chúng ta lại đưa vào quy định của Luật luật sư (sửa đổi) như trong Báo cáo giải trình, tiếp thu theo tôi là chưa thỏa đáng, nếu chỉ lấy lý do để xây dựng đội ngũ luật sư theo chiến lược phát triển hành nghề luật sư đến năm 2020 với mục tiêu có từ 18.000 – 20.000 luật sư là chưa đủ. Trên thực tế, số lượng người làm công tác giảng dạy pháp luật chỉ có trên 1.000 người, chưa tính đến việc không phải tất cả số người này đều tham gia hành nghề luật sư.

Nếu chỉ lấy lý do đội ngũ viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật có nhiều người đào tạo bài bản ở nước ngoài, am hiểu pháp luật nước ngoài, pháp luật và tập quán quốc tế khi tham gia làm luật sư sẽ bổ sung một số lượng đáng kể phục vụ cho việc hội nhập quốc tế tham gia đàm phán các vụ việc giải quyết tranh chấp đối với các giao dịch có yếu tố nước ngoài cũng vẫn là chưa đủ. Theo tôi, trên thực tế không chỉ có các viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật đáp ứng yêu cầu này, ở các cơ quan khác, các ngành khác cũng có rất nhiều cán bộ công chức, viên chức được đào tạo bài bản, cũng thông thạo ngoại ngữ, cũng am hiểu về pháp luật nước ngoài cũng có thể tham gia tốt công việc đàm phán và giải quyết các tranh chấp với các giao dịch có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, theo tôi không nên quy định cho phép viên chức hành nghề luật sư nếu chỉ vì những lý do giải trình nêu trên, hoặc nếu quy định thì phải đưa cả đội ngũ cán bộ công chức vào mới là đầy đủ.

Vấn đề thứ hai, vấn đề phát triển đội ngũ luật sư công, hiện nay theo số liệu của ngành lao động thương binh xã hội, nước ta có 12.000 hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới, hàng triệu đối tượng được hưởng chế độ chính sách, đây là những đối tượng rất cần được quan tâm giúp đỡ bởi sự hiểu biết pháp luật của họ ở khía cạnh nào đó còn rất hạn chế. Cho nên, khi tham gia vào các quan hệ xã hội họ cần có một đội ngũ luật sư công đứng ra để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Mặt khác theo chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nước ta cần có đội ngũ luật sư từ 18.000-20.000 người, tính đến nay chúng ta có 7.072 luật sư và gần 3.500 luật sư hành nghề tập sự hoạt động trong 2.831 tổ chức hành nghề luật sư. Nếu so với quy mô dân số của các nước trên thế giới thì tỷ lệ luật sư của Việt Nam vẫn còn quá ít, tính trung bình mới chỉ đạt 1/16.000 dân, trong khi ở Mỹ tỷ lệ này là 1/250, Nhật Bản là 1/400, Singapore là 1/1.000. Như vậy từ nay cho đến năm 2020 theo quy hoạch chúng ta còn thiếu hụt một số lượng luật sư rất lớn, vì vậy tôi đề nghị song song với việc phát triển đội ngũ luật sư nói chung chúng ta cần phát triển đội ngũ luật sư công, tức là đội ngũ trợ giúp viên pháp lý hiện nay, bởi theo tôi đây cũng là một chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta đã và đang đi vào cuộc sống xã hội.

Một vấn đề nữa cần đặt ra là hiện nay vẫn còn nhiều bất cập trong việc luật sư thực hiện đầy đủ quyền của mình khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng để đảm bảo quyền và lợi ích của khách hàng. Ví dụ như theo quy định luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can nhưng trên thực tế tỷ lệ các vụ án luật sư được tham gia từ giai đoạn điều tra còn quá thấp so với tổng số vụ án hình sự bị khởi tố. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, một là do bị can không biết mình có quyền mời luật sư hoặc biết nhưng vì khó khăn về tài chính nên không thể thuê luật sư. Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chưa tạo điều kiện thuận lợi để luật sư thực hiện đầy đủ chức năng tố tụng của mình, một số điều tra viên chưa ủng hộ việc luật sư tham gia từ giai đoạn đầu của điều tra. Đã đến lúc cần phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật tố tụng hình sự một cách toàn diện theo hướng dân chủ hóa hoạt động tố tụng, phải xem xét việc tham gia của luật sư vào quá trình tố tụng hình sự là giám sát tối cao nhất đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ tư, vấn đề quản lý Nhà nước đối với hoạt động của luật sư, có quan điểm cần phải nâng cao công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động luật sư, trong khi đó có không ít quan điểm cho rằng cần nới lỏng quản lý hoạt động đối với hoạt động này. Theo tôi cần phải nâng cao hơn nữa công tác quản lý Nhà nước từ địa phương đến Trung ương đối với hoạt động của luật sư vì loại hình tổ chức này đang là đa số những người có trình độ văn hóa, có kiến thức pháp luật, am hiểu xã hội, có điều kiện phát ngôn theo qui định của pháp luật nên cần phải nâng cao hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động luật sư của đoàn luật sư. Vấn đề này không nên đưa vào luật nhiều mà nên giao cho Chính phủ qui định sẽ có tính cơ động hơn. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Vũ Xuân Trường – Nam Định

Kính thưa Quốc hội.

Tôi cơ bản nhất trí với Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận tại các tổ của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp về luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật luật sư. Tôi tham gia thêm một số vấn đề mà thấy các đại biểu trong thảo luận cũng còn nhiều ý kiến. Trước hết về tên gọi của luật tôi cũng thống nhất với dự thảo, tức là luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật luật sư. Bởi vì luật này chỉ sửa đổi bổ sung một số điều, còn lại hầu hết giữ nguyên theo luật 2006.

Ý thứ hai, trong phần nguyên tắc chung của Chương I, tôi thấy luật 2006 cũng như luật hiện nay đều bỏ khái niệm là “thân chủ” hiện nay trong thực tiễn, trong thông lệ quốc tế và trong sử dụng trong tố tụng các luật sư vẫn sử dụng. Theo tôi nếu dùng từ “khách hàng” mà bỏ khái niệm từ “thân chủ” thì tôi nghĩ rằng việc bào chữa cho cá nhân, tổ chức hoặc người thân thì không phải nguyên nghĩa chỉ là quan hệ mua bán giữa khách hàng, trao đổi dịch vụ giữa khách hàng và luật sư mà nó còn nhiều nghĩa khác nhiều khi người ta vì trách nhiệm trước pháp luật, vì tình cảm và vì các mối quan hệ khác nên dùng các luật sư vẫn hay dùng từ “thân chủ” tôi cho là nên giữ từ này.

Về Điều 13, người được miễn đào tạo nghề luật sư, tôi cũng thấy các đại biểu phát biểu nhiều, quan điểm của tôi cũng cơ bản nhất trí theo hướng ngoài giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ luật thì thành phần thứ hai là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên và trong Khoản 3, có qui định về sĩ quan quân đội trong lĩnh vực pháp luật đã làm 15 năm, công chứng viên, chấp hành viên và thừa phát lại. Vì nếu sĩ quan quân đội đã làm trong lĩnh vực pháp luật 15 năm, sĩ quan công an cũng làm trong lĩnh vực pháp luật sao lại không được hưởng quy định này, trong lĩnh vực pháp luật như các đại biểu đã nói trước tôi là rất chung chung, nên đã là trong lĩnh vực pháp luật mà ta được miễn thì đã là kiểm sát viên, thẩm phán và điều tra viên rồi, kể cả trong quân đội không nên dùng tiết định này nữa, các ý khác tôi nhất trí theo dự thảo.

Điều 17, quy định về việc không cấp chứng chỉ cho luật sư trong các trường hợp trong đó có một trường hợp tại Điểm c, Khoản 4 là những trường hợp đã bị kết án theo quan điểm của tôi những trường hợp đã bị kết án về tội phạm do cố ý thì không được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nữa. Những tội phạm về lỗi vô ý thì có thể vẫn cấp chứng chỉ để cho người ta hành nghề luật sư, còn đã là lỗi cố ý mặc dù đã được xóa án tích thì cũng không được cấp chứng chỉ nữa vì đạo đức, phẩm chất, uy tín, danh dự, nghề nghiệp của luật sư đã bị kết án thì không nên cho hành nghề này nữa.

Điều 9, các hành vi bị nghiêm cấm, theo dự thảo luật đã đề ra 3 điểm nghiêm cấm, trong thực tiễn tôi thấy còn một số hành vi cũng nên phải được ngăn chặn. Luật sư khi tham gia tố tụng, cơ bản hầu hết các luật sư đều là ý thức tốt, trách nhiệm cao và chấp hành pháp luật. Tuy vậy không ít luật sư khi không đạt được ý định bào chữa của mình thì dùng những lời lẽ xúc phạm, kích động, làm mất trật tự, làm phá vỡ phiên tòa, bỏ ra giữa giờ, từ chối tìm mọi cách để trì hoãn phiên tòa. Chính vì vậy, tôi xin được bổ sung 3 ý:

Ý thứ nhất, Điểm b nên bỏ cụm từ là “cố ý cung cấp tài liệu vật chứng giả, sai sự thật” thì nên bỏ từ “cố ý”, có nghĩa là cứ cung cấp tài liệu, vật chứng giả, những tài liệu đưa ra để tranh luận sai sự thật là phải cấm chứ không cứ phải cố ý hay vô ý, đã đưa vào đây là không được chấp nhận, phải cấm.

Ý thứ hai, phải bổ sung thêm một câu là: cấm luật sư tham gia hướng dẫn khách hàng, thông tin cho khách hàng, đưa ra những tài liệu chứng cứ sai sự thật để cung cấp cho cơ quan pháp luật. Bổ sung thêm Điểm h là: cấm việc xúc phạm danh dự, hạ thấp uy tín của đồng nghiệp khi luật sư tranh luận với luật sư của bên bị hại, có khi chính hai luật sư lại xúc phạm nhau, hạ thấp uy tín của đồng nghiệp hoặc dùng hành vi và lời nói mang tính chất kích động, chỉ trích, xúc phạm cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quá trình tham gia tố tụng. Bổ sung vào Điểm i là tự mình hoặc giúp khách hàng, thân chủ thực hiện những hành vi bất hợp pháp nhằm trì hoãn kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn cản trở hoạt động của cơ quan tố tụng. Còn một điểm nữa cũng nên đưa vào là khi luật sư chỉ định bào chữa cho những đối tượng chính sách, những đối tượng được miễn, giảm nhiều khi luật sư vẫn đòi hỏi tiền của thân chủ, của người được bào chữa mà điều này đã được nhà nước trang bị chế độ và cấm đòi tiền, vật chất, lợi ích khi trợ giúp pháp lý, khi trợ giúp cho các đối tượng được hưởng chính sách trợ giúp pháp lý theo luật định. Tôi xin bổ sung thêm 3 ý như vậy.

Tôi xin góp ý về thù lao luật sư tại Điều 54, hiện nay thân chủ ngoài trả các chi phí thực tế phải trả thù lao, theo tôi cần quy định rõ trong luật là thù lao này phải có hợp đồng, dịch vụ pháp lý quy định khung và mức thù lao như thế nào Chính phủ phải quy định rõ và tránh tình trạng luật ép người được bào chữa, hai là khi không bào chữa được thì vẫn đòi hỏi quyền lợi của mình một cách trái pháp luật và khi không làm được thì phải có trách nhiệm đối với hợp đồng pháp lý. Trên đây là một số ý kiến của tôi tham gia vào dự thảo bổ sung, xin hết. Xin cám ơn Quốc hội.

Lê Minh Hiền – Khánh Hòa

Kính thưa Đoàn Chủ tọa,

Kính thưa Quốc hội,

Trước hết, tôi cơ bản nhất trí với Tờ trình số 59 ngày 05 tháng 04 năm 2012 của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư và Báo cáo số 140 ngày 04 tháng 6 năm 2012 của Chính phủ về việc tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ và ý kiến thẩm tra của Ủy ban tư pháp của Quốc hội về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư. Tôi nhận thấy đây là một dự án luật được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, công phu và có đầy đủ các tài liệu trình Quốc hội. Qua đây, tôi cũng rất mong các cơ quan trình luật sau này cũng cần có Báo cáo giải trình, tiếp thu luật sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban cho ý kiến để các đại biểu Quốc hội thuận tiện nghiên cứu và cho ý kiến đối với các vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Sau đây, tôi xin đóng góp một số ý kiến đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư.

Vấn đề thứ nhất, về đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư tại Điều 13 về đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư hiện nay quy định của Luật luật sư còn thiếu chặt chẽ và chưa phù hợp, với một nghề đòi hỏi phải có kỹ năng hành nghề trong thực tế như nghề luật sư. Bên cạnh đó Luật luật sư năm 2006 cũng quy định chưa đầy đủ về việc miễn đào tạo cho một số chức danh tư pháp trong xã hội, trong đó có bằng cử nhân luật và được đào tạo nghề gần với nghề luật sư như công chứng viên, chấp hành viên. Thực tế cho thấy những trường hợp được miễn đào tạo hiện nay có thể là những người am hiểu pháp luật nhưng kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề luật sư cần phải được tích lũy, trau dồi hơn nữa để đảm bảo chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho khách hàng. Việc thiếu các quy định về thời gian công tác của các đối tượng được miễn đào tạo dẫn đến tình trạng có những người đã thôi giữ chức danh như thẩm phán, kiểm sát viên từ lâu không thường xuyên cập nhật kiến thức pháp luật, nhưng sau đó mới xin cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Hoặc có trường hợp được bổ nhiệm chưa công tác hết nhiệm kỳ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên nhưng sau đó lại xin thôi việc hoặc chuyển công tác khác cũng thuộc diện được miễn đào tạo. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đầu vào của luật sư và để khắc phục những hạn chế này, tôi đồng ý với dự thảo luật quy định một số trường hợp vừa được miễn đào tạo, vừa được miễn tập sự hành nghề bao gồm giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật, người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, người đã là điều tra viên cao cấp, chấp hành viên cao cấp, thẩm tra viên cao cấp, kiểm tra viên cao cấp, thanh tra viên cao cấp, chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.

Đồng thời, để nâng cao chất lượng của luật sư, tôi đồng ý với dự thảo luật quy định chặt chẽ hơn việc miễn đào tạo nghề luật sư cụ thể với các đối tượng trên trừ giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật chỉ được xem xét miễn đào tạo nghề luật sư trong thời hạn tối đa là 5 năm kể từ ngày thôi đảm nhận các chức danh đó.

Khác với các đại biểu phát biểu trước tôi. Như đã phân tích ở trên, tôi đồng ý và nhất trí với Báo cáo số 140 của Chính phủ về việc dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư mở rộng thêm đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư đối với những người đã có bằng cử nhân luật và được đào tạo nghề luật sư như chấp hành viên, công chứng viên mà chúng ta hay gọi công chứng viên là thẩm phán phòng ngừa trong lĩnh vực pháp luật, bởi các đối tượng này đã được đào tạo qua các lớp đào tạo chức danh tư pháp và Luật công chứng cũng đã có quy định luật sư cũng được miễn đào tạo nghề công chứng.

Tôi nhất trí với ý kiến đại biểu Nguyễn Hữu Hùng ở Tiền Giang. Tôi đề nghị với Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung thêm một đối tượng đó là trợ giúp viên pháp lý cũng được miễn đào tạo nghề luật sư. Tôi xin không phân tích lại vì đại biểu Nguyễn Hữu Hùng đã phân tích rất kỹ. Chúng ta thấy trợ giúp viên pháp lý hiện nay đã thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý như một luật sư thực thụ. Do vậy, tôi đề nghị nghiên cứu thêm đối tượng nữa là trợ giúp viên pháp lý cũng được miễn đào tạo nghề luật sư và cũng được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề theo Điều 16 như luật sư như đại biểu Nguyễn Hữu Hùng đã phân tích.

Đối tượng thứ hai là người đã từng là luật sư trước đây, theo Pháp lệnh luật sư như giảng viên đã từng là luật sư như đại biểu Tô Văn Tám phân tích. Vì vậy, tôi đề nghị thêm đối tượng người đã từng là luật sư. Tôi cũng đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định “căn cứ quy định tại điều này Chính phủ quy định chức danh tư pháp tương đương khác được miễn đào tạo nghề luật sư” mà việc quy định đối tượng miễn đào tạo nghề luật sư cần được quy định ngay trong luật, không nên giao việc này cho Chính phủ.

Vấn đề thứ hai, về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư tại Điều 27. Cho đến nay Luật luật sư và pháp luật về tố tụng không thống nhất về thủ tục cấp giấy chứng nhận theo Điều 27 Luật luật sư.

Thực tiễn tổng kết 5 năm thi hành Luật luật sư cho thấy thủ tục này vẫn là rào cản đối với luật sư trong tham gia bào chữa cho bị cáo trong vụ án hình sự, tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong vụ án dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình. Hàng năm các đoàn luật sư tổ chức tổng kết đều có kiến nghị về thủ tục này vì Bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng hành chính không quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, các luật sư đều có nguyện vọng được tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành nghề, không yêu cầu phải thêm thủ tục cấp giấy chứng nhận nhưng tại Điều 27 Luật luật sư 2006 lại quy định “luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa”. Như vậy Điều 27 Luật luật sư đã quy định thêm thủ tục cấp giấy chứng nhận trong vụ án dân sự, hành chính. Rõ ràng quy định này chỉ mang thủ tục rườm rà và gây khó cho người hành nghề luật sư. Tại Khoản 4 Điều 27 Luật luật sư 2006 quy định “giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng”, nhưng thực tế kiểm sát và tòa án vẫn có yêu cầu luật sư phải cung cấp các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa cho từng giai đoạn tố tụng. Sở dĩ có tình trạng này là do các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Những bất cập, vướng mắc trên không tạo điều kiện cho luật sư trong quá trình hành nghề, đặc biệt trong việc thực hiện hoạt động dịch vụ pháp lý tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức là khách hàng của luật sư, gây khó khăn cho tổ chức hành nghề luật sư về thời gian, tăng chi phí phục vụ, thủ tục cấp giấy chứng nhận, không bảo đảm thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ.

Để cắt giảm gánh nặng và chi phí nhưng vẫn đảm bảo tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động tố tụng của luật sư tôi đề nghị bỏ quy định tại đoạn cuối chữ in nghiêng của Khoản 2 Điều 27 tại phụ lục báo cáo số 140 ngày 4/6/2012, đó là ngay sau luật sư trình thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy xác nhận về việc tham gia tiến hành tố tụng của luật sư cho người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đương sự trong tố tụng hành chính, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động mà luật sư chỉ cần xuất trình thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư là đủ. Trên đây là ý kiến của tôi đối với luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật luật sư. Xin cám ơn Quốc hội.

Nguyễn Sỹ Cương – Ninh Thuận

Kính thưa Quốc hội,

Trước hết tôi nhận thấy dự thảo Luật luật sư đã được sửa đổi bổ sung theo hướng tập trung vào một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của luật sư nhằm tháo gỡ những khó khăn, nâng cao chất lượng của luật sư cũng như chất lượng hành nghề luật sư. Phát huy vai trò tự quản của một tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Tôi xin có một số ý kiến đóng góp với dự thảo luật này như sau:

Trước hết, về vấn đề cho phép viên chức được hành nghề luật sư trong Điều 17 của dự thảo, vấn đề này đã có nhiều ý kiến phát biểu trước tôi. Tôi xin nêu quan điểm của mình đó là mặc dù theo quy định tại Điều 14 của Luật viên chức thì viên chức được hoạt động nghề nghiệp ngoài thời gian làm việc trong hợp đồng làm việc nhưng không được gây ảnh hưởng đến công việc được giao và phải được sự đồng ý của người đứng đầu. Tuy nhiên, hoạt động hành nghề luật sư đòi hỏi tính chuyên môn chuyên nghiệp cao và phải dành nhiều thời gian để tham gia tố tụng, đại diện bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Các hoạt động họ phải tham gia cũng diễn ra trong giờ hành chính, như việc tham gia bào chữa tại phiên tòa, làm gì có phiên tòa nào mở ngoài giờ hoặc mở ban đêm. Như vậy đương nhiên các viên chức sẽ bớt xén thời gian làm việc của mình ở đơn vị. Việc cho phép như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng của việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức và sẽ làm khó cho các nhà quản lý khi có các viên chức làm việc theo kiểu chân ngoài dài hơn chân trong.

Tôi nghĩ rằng tôi không tưởng tượng được một trường đại học luật có số lượng giảng viên tham gia các hoạt động luật sư, tôi không hiểu việc điều hành cho các nhà quản lý để thực hiện chương trình giảng dạy cả nhà trường sẽ khó như thế nào, chưa kể theo định hướng như giải trình của Chính phủ còn muốn huy động cả 100% số lượng giảng viên tham gia làm luật sư.

Tóm lại, việc cho phép viên chức hành nghề luật sư sẽ không đáp ứng được yêu cầu chuyên nghiệp hóa và sự chuyên tâm của luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng như định hướng chiến lược phát triển luật sư đến năm 2020. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cũng không cho phép viên chức hành nghề luật sư, việc giải trình theo hướng tạo sự công bằng cho các giảng viên ở các cơ sở công lập và cơ sở ngoài công lập, tránh chảy máu chất xám từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân là không thực sự thuyết phục. Dù dự thảo luật có bổ sung thêm điều kiện phải được người đứng đầu cơ sở đào tạo cho phép, nhưng theo tôi, việc cho phép viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật hành nghề luật sư là không nên. Tôi đồng tình với ý kiến thẩm tra của Ủy ban tư pháp và của rất nhiều ý kiến của các đại biểu đã phát biểu tại tổ và tại hội trường.

Thứ hai, về đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư ở Điều 13, theo tôi nghề luật sư là một nghề mang tính chuyên nghiệp sâu, chỉ nên miễn đào tạo nghề luật sư cho các đối tượng bao gồm những chức danh được Luật tố tụng quy định là người tiến hành tố tụng và trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng. Các đối tượng khác không phải là chức danh tố tụng như giáo sư, phó giáo sư ngành luật, tiến sỹ luật quy định ở Khoản 1, Điều 13 cần có thời gian nhất định để bồi dưỡng thêm kỹ năng hoặc có thời gian tập sự mới được cấp giấy chứng nhận hành nghề luật sư. Tất nhiên việc đào tạo nghề luật sư cần có chương trình làm sao cho phù hợp với từng loại đối tượng, không nên cứng nhắc, vấn đề này đã được Chính phủ tiếp thu trong Báo cáo số 140 ngày 4/6/2012 theo hướng giữ nguyên như dự thảo. Tôi đề nghị xem lại quy định này.

Thứ ba, về vấn đề tập sự hành nghề luật sư, tôi đồng ý với ý kiến của đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã phát biểu trước tôi, tôi cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư là hoạt động thực tiễn nên những người muốn trở thành luật sư phải được học nghề, trải qua kinh nghiệm thực tế, chủ yếu là rèn luyện những kỹ năng hành nghề nên nhất thiết phải kéo dài thời gian cọ sát với thực tiễn. Do vậy, nên giữ thời gian tập sự 18 tháng theo như quy định của Luật luật sư năm 2006, không nên giảm xuống 12 tháng. Mặt khác, mặc dù dự thảo luật đã có những quy định khá cụ thể về những việc người tập sự hành nghề luật sư phải làm, được làm nhưng không lượng hóa được khối lượng công việc mà họ phải hoàn thành trong thời gian tập sự. Có thể nói quy định này vẫn thiếu chặt chẽ, đó cũng là lý do mà chất lượng của luật sư cũng rất khác nhau.

Thứ tư, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư, tôi đề nghị cân nhắc bỏ hình thức công ty luật dưới dạng công ty luật trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình tổ chức hành nghề luật sư. Tư vấn luật hành nghề, có tính trách nhiệm cá nhân khá cao, kết quả hoạt động nghề nghiệp tư vấn luật của luật sư ảnh hưởng đến hành vi của những đối tượng tư vấn trong quan hệ kinh tế, dân sự, hành chính hay hình sự. Qua đó tác động đến phát triển kinh tế, xã hội đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó tổ chức hành nghề luật sư cần thực hiện dưới hình thức công ty đối nhân theo hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Theo đó các Luật sư hành nghề điều hành là những người chịu trách nhiệm bằng cả uy tín cá nhân, tài sản cùng với những nội dung mà họ phải tư vấn cho khách hàng loại hình công ty đối vốn như công ty trách nhiệm hữu hạn không phù hợp với tính chất hoạt động của luật sư, của công tác tư vấn luật cũng như cơ chế chịu trách nhiệm về nghề nghiệp của luật sư.

Bên cạnh đó tôi đề nghị mọi vấn đề về thành lập tổ chức hành nghề luật sư cũng như công chứng, giám định tư pháp sau này khi mà sửa các luật tương ứng thì cũng cần được thực hiện thống nhất theo Luật doanh nghiệp. Luật luật sư không nên có những qui định về thành lập và tổ chức hoạt động vì dù qui định thế nào cũng không thể bao quát hết được những vấn đề về tổ chức và hoạt động nội bộ của một số doanh nghiệp là tổ chức hành nghề luật sư đã được qui định cụ thể trong Luật doanh nghiệp. Thực tế thực hiện Luật luật sư cho thấy đã xuất hiện nhiều vướng mắc trong các vấn đề về tổ chức quản lý nội bộ của văn phòng luật sư. Để tránh những vướng mắc có thể không lường trước được như vậy Luật luật sư chỉ nên qui định thủ tục thành lập, còn việc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động theo qui định của Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể coi đây là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, do đó Luật luật sư sẽ qui định những điều kiện phải có khi muốn thành lập một tổ chức hành nghề luật sư thể hiện dưới dạng các loại giấy phép khi làm thủ tục đăng ký kinh doanh.

Ý kiến cuối cùng, về thẩm quyền phê duyệt điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, theo Khoản 3, Điều 67 của dự thảo luật qui định: Bộ trưởng Bộ tư pháp phê duyệt điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ nội vụ. Tôi đề nghị cân nhắc quy định trong luật này vì theo quy định của Nghị định số 45 của Chính phủ thì hội không tổ chức theo hệ thống dọc từ Trung ương xuống địa phương và việc phê duyệt điều lệ hội hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ nội vụ. Tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

 

(Quốc hội nghỉ giải lao)

Uông Chu Lưu – Phó Chủ tịch Quốc hội

Kính thưa Quốc hội,

Cho đến bây giờ đang còn 17 vị đại biểu Quốc hội đăng ký phát biểu, chúng tôi cũng thấy rằng trong quá trình đầu giờ chiều hôm nay có nhiều ý kiến trùng lặp, những vấn đề gì các đồng chí đồng ý rồi thì xin phép thôi không nhắc lại. Còn những vấn đề gì mới thì phát biểu thêm. Xin mời đại biểu Phạm Văn Hà, Đoàn Nghệ An phát biểu, đại biểu Đào Thị Xuân Lan, Đoàn Hưng Yên chuẩn bị.

Phạm Văn Hà – Nghệ An

Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,

Kính thưa Quốc hội,

Tôi thấy dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư được Ban soạn thảo và Chính phủ chuẩn bị nghiêm túc, chu đáo, Chính phủ đã có 2 báo cáo số 140 ngày 04 tháng 06 năm 2012 và số 161 ngày 18 tháng 6 năm 2012 về việc tiếp thu, giải trình, thực hiện ý kiến của Phó Chủ tịch Quốc hội phát biểu những vấn đề các đại biểu chưa phát biểu bởi vì còn 17 đại biểu nữa, do đó tôi xin đi thẳng vào nội dung như sau.

Về thời gian đào tạo nghề luật sư, theo Điều 12, tôi nhất trí với quy định về thời gian đào tạo nghề luật sư đối với những người không được miễn là 12 tháng. Nhưng tôi đề nghị trong dự thảo luật cần nghiên cứu ở Khoản 2 quy định thời gian đào tạo nghề luật sư là 12 tháng thì tôi thấy thời gian đào tạo nghề luật sư do Bộ trưởng Bộ tư pháp quy định. Bởi vì trong thực tiễn lúc thì đào tạo nghề 6 tháng, lúc thì 9 tháng và hiện nay là 12 tháng. Để tránh phải sửa đổi luật nhiều lần và có thể sau một thời gian nữa thì chúng ta thấy đào tạo nghề có thể là 18 tháng hoặc rút ngắn thì vấn đề này do Bộ trưởng Bộ tư pháp quy định thì việc sửa đổi luật là không được tuổi thọ cao.

Thứ hai, về cơ sở đào tạo nghề luật sư, tôi đề nghị bỏ Khoản 3 là Chính phủ quy định về cơ sở đào tạo nghề luật sư. Bởi vì hiện nay theo dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thì Pháp lệnh về đào tạo các chức danh tư pháp sẽ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét và thông qua, pháp lệnh này sẽ quy định Học viện tư pháp là nơi đào tạo nghề luật sư. Vì thế theo tôi dự thảo luật ở Khoản 1 cần nêu thẳng là người có bằng cử nhân luật được tham gia khóa đào tạo nghề luật sư tại Học viện tư pháp.

Về miễn đào tạo nghề luật sư, bản thân tôi hoan nghênh Ban soạn thảo đã tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, đó là không đưa thừa phát lại là đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư. Tôi cũng đồng tình với Ủy ban Tư pháp về việc công chứng viên và chấp hành viên không đưa vào diện được miễn đào tạo nghề luật sư. Vấn đề này đại biểu Vi Thị Hương, Đoàn Điện Biên đã phân tích rất kỹ nhưng tôi thấy còn 2 lý do nữa đó là chưa đào tạo nghề tiến hành tố tụng như kiểm sát viên và thẩm phán. Hai nữa là chúng ta phải xem xét thực tiễn đó là công việc chính, công việc thường xuyên hàng ngày của họ là như thế nào.

Thứ ba, về cấp chứng chỉ hành nghề luật sư theo Điều 17, lần này Ban soạn thảo bỏ phần sơ yếu lý lịch của luật sư. Khoản 1 quy định: hồ sơ gồm có phiếu lý lịch tư pháp, giấy chứng nhận sức khỏe, bản sao bằng cử nhân luật, tức là có điểm a, b, c, d, đ, e nhưng bỏ sơ yếu lý lịch của luật sư. Tôi thấy rằng phần sơ yếu lý lịch mới phản ánh được đầy đủ quá trình học tập, công tác, các mối quan hệ v.v… và tránh được những trường hợp như luật sư chưa được xóa án tích mà vẫn được cấp giấy chứng nhận luật sư, như vừa rồi có một luật sư ở tỉnh Hải Dương.

Thứ tư là việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư và quy định mở rộng đối với đối tượng được quyền yêu cầu luật sư bào chữa, phần này tôi hoàn toàn nhất trí với báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp và thực tiễn trong quá trình 5 năm chúng ta thấy việc luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận nghề bào chữa không ảnh hưởng gì và hình sự khác với loại tranh chấp khác, dân sự, hành chính, kinh tế, thương mại ở chỗ những trường hợp bị can đang ở các trại tạm giam, tạm giữ thì họ có thủ tục vào trại và xuất trình giấy chứng nhận này để cán bộ đưa người đang bị tạm giữ, tạm giam ra để luật sư làm việc với họ. Phần này theo tôi không có ảnh hưởng gì đến việc cấp giấy chứng nhận cho luật sư.

Còn một nội dung nữa cho phép viên chức hành nghề luật sư, nội dung này đã có nhiều ý kiến phát biểu, hiện nay đang có hai quan điểm. Về phần lý luận tôi thấy quan điểm nào cũng hay nhưng đi vào thực tiễn thì chúng ta cần quan tâm tới thực tiễn. Bây giờ lấy lý do là Luật công chức không cho phép hoặc cho phép so sánh giữa bác sỹ và giảng viên đại học, hai cái nó khác nhau, một bên là có tác động tiêu cực còn một bên không có tác động gì cả. Bác sỹ họ làm ngoài giờ, chỉ có ở Trung Quốc trong phim Bao công người ta xử ban đêm, còn ở Việt Nam thì không xử ban đêm, cơ quan điều tra làm việc ban ngày vì vậy rất khó khăn cho luật sư làm nghề giảng viên. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu cân nhắc lĩnh vực này. Tôi xin hết ý kiến. Xin cảm ơn Quốc hội.

Đào Thị Xuân Lan – Hưng Yên

Kính thưa Quốc hội.

Về dự án luật sửa đổi Luật luật sư, tôi đồng tình cao với báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp và nội dung dự thảo luật sau khi đã được Chính phủ chỉ đạo giải trình và tiếp thu. Sau đây tôi xin có 3 ý kiến để làm rõ thêm.

Thứ nhất, về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự. Tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung dự thảo luật đã trình theo hướng khi luật sư tham gia tố tụng hình sự thì phải được các cơ quan điều tra truy tố và xét xử cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì luật sư mới bắt đầu thực hiện việc bào chữa và nội dung này hoàn toàn phù hợp với Luật tố tụng hình sự cũng như yêu cầu của thực tiễn. Nhưng tại tờ trình của Chính phủ thì còn ý kiến khác đề nghị bỏ quy định này vì cho rằng để đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng tranh tụng của luật sư thì tôi thấy việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư tham gia tố tụng hình sự là một thủ tục hành chính mà không phải là một thủ tục tố tụng. Cho nên việc cấp giấy chứng nhận cho luật sư tham gia tố tụng cũng không làm hạn chế đi bất cứ một quyền nào trong hoạt động của luật sư trong việc bào chữa và quan trọng là để bảo đảm cho luật sư được tham gia tố tụng, đảm bảo cho luật sư phải có mặt ngay trong từng giai đoạn tố tụng theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Mặt khác, việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư vào tham gia tố tụng và tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc theo dõi, quản lý hồ sơ vụ án cũng như quản lý bị can, bị cáo thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cho nên việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư tham gia tiến hành tố tụng là yêu cầu cần thiết. Tôi đề nghị được giữ nguyên.

Ý kiến thứ hai của tôi là dự thảo luật đã mở rộng cho phép người thân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được mời luật sư để bào chữa cho họ thì đây là quy định phù hợp với Luật tố tụng hình sự cũng như phù hợp với Nghị quyết ngày 02-10-2004 thì Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn tại Nghị quyết số 03, nhưng hiện nay, Luật luật sư hiện hành chưa quy định cho nên nay dự thảo luật đưa vào tôi hoàn toàn nhất trí. Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như để đảm bảo hoạt động cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì dự thảo luật đã giới hạn người thân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người thuộc diện hàng thừa kế thứ nhất. Nhưng trong thực tiễn cũng có rất nhiều các bị can, bị cáo cũng như người tạm giữ họ không có người thân thuộc diện hàng thừa kế thứ nhất thì chúng ta có cho phép người thân thuộc diện hàng thừa kế thứ hai, đến anh chị em ruột người ta cũng được mời người bào chữa để bảo vệ quyền lợi ích cho họ không? bởi vì theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì quyền của những người đó được nhờ người khác bào chữa cho mình, để đảm bảo việc đó tôi đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét thêm.

Ý kiến thứ ba, luật này có nên quy định cho phép viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư hay không. Hiện nay có ý kiến khác nhau nên Chính phủ đã trình ra Quốc hội theo 2 phương án. Tôi đồng ý với phương án thứ nhất trong báo cáo tiếp thu giải trình của Chính phủ ngày 04/6/2012 là cho phép giảng viên đang làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư với các lý do trong Báo cáo giải trình, tiếp thu cũng đã nêu, tôi thấy rất có căn cứ. Bởi vì Luật viên chức không cấm giảng viên hoạt động nghề nghiệp ngoài thời gian làm việc quy định trong hợp đồng làm việc, hợp đồng làm việc đối với viên chức không phải họ làm việc tất cả các ngày trong tuần nên các đồng chí cứ phân tích không có luật sư tham gia ngoài giờ, không được hành nghề ngoài giờ. Nhưng các giảng viên này người ta không phải đứng lớp tất cả những giờ hành chính nên ngoài thời gian làm việc quy định trong hợp đồng làm việc thì họ có thể được làm.

Viên chức chỉ không được phép góp vốn để thành lập hoặc tham gia thành lập các doanh nghiệp, vì vậy viên chức đang làm công tác giảng dậy tại cơ sở luật thì không bị cấm hành nghề luật sư mà họ chỉ không được thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư, điều này trong dự thảo luật đã thể hiện rất rõ. Việc cho phép viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư tôi thấy hoàn toàn không trái với Luật viên chức và các luật hiện hành mà còn tạo điều kiện cho giảng viên được tiếp xúc với kỹ năng hành nghề trong thực tiễn để phục vụ tốt hơn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo các chuyên ngành luật và đào tạo cả nghề luật sư. Đồng thời còn làm tăng thêm cơ hội lựa chọn dịch vụ pháp lý cho người dân làm cho đội ngũ luật sư ngày càng có chất lượng để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và thúc đẩy việc thực hiện chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 như đã đề ra.

Một lý do tôi muốn nhắc lại trong Báo cáo tiếp thu, giải trình của Chính phủ có nêu Quốc hội khóa XI khi xem xét cân nhắc thông qua Luật luật sư đã không cho phép viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư bởi vì nếu cho phép họ kiêm nhiệm hoạt động cả hai lĩnh vực, cả giảng dạy và hành nghề luật sư thì sẽ khó đảm bảo chất lượng nhưng dự thảo luật lần này đã được Chính phủ chỉ đạo, khắc phục vấn đề không làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy bằng cách là đã qui định về hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề của luật sư cho viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật phải có giấy xác nhận của người đứng đầu cơ sở đào tạo cho phép giảng viên tham gia hành nghề thì hồ sơ đấy mới được cơ quan có thẩm quyền xem xét. Nhưng ngày hôm qua Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục đại học, theo tôi hồ sơ này phải được Hội đồng trường cho phép và có cam kết của người giảng viên làm công tác giảng dạy mà không làm ảnh hưởng gì đến chất lượng giảng dạy, theo tôi cũng chấp nhận được.

Có một thực tiễn từ trước năm 2006 thì các giảng viên đang làm công tác giảng dạy pháp luật họ cũng được hành nghề luật sư và điều đó không làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của các giảng viên đang làm công tác giảng dạy pháp luật. Từ phân tích trên đây, tôi đề nghị Quốc hội xem xét cho phép các viên chức đang giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư, tôi xin hết ý kiến, xin cảm ơn Quốc hội.

Dương Ngọc Ngưu – Điện Biên

Kính thưa Chủ tịch đoàn.

Kính thưa Quốc hội.

Vì thời gian có hạn, tôi xin phát biểu hai vấn đề còn có những ý kiến khác nhau. Còn các vấn đề khác tôi xin gửi lại cho Đoàn thư ký kỳ họp.

Thứ nhất, về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư. Do đặc thù của nghề luật sư là người tham gia tố tụng cần phải được đào tạo kỹ về kỹ năng tác nghiệp, kỹ năng hoạt động tố tụng, đạo đức tư cách, bản lĩnh nghề nghiệp, trong đó có kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập thông tin chứng cứ, đánh giá chứng cứ, kiến thức áp dụng pháp luật, xây dựng luận cứ bào chữa, kỹ năng tác nghiệp như xét hỏi, tranh luận đối đáp, tranh tụng tại phiên tòa. Dự thảo luật qui định các đối tượng công chứng viên, chấp hành viên, thừa phát lại là những người chưa được đào tạo các nội dung kiến thức trên, không có kinh nghiệm hoạt động tố tụng lại được miễn đào tạo nghề luật sư là không phù hợp. Các nội dung đào tạo các nghề này cũng không đào tạo nghiệp vụ tham gia tố tụng và cũng không có nội dung gần với đào tạo nghề luật sư. Do vậy, chúng tôi không đồng ý việc miễn đào tạo nghề luật sư cho các đối tượng công chứng viên, chấp hành viên, thừa phát lại. Tôi cũng không đồng ý giao cho Chính phủ qui định những đối tượng khác được miễn đào tạo nghề luật sư như báo cáo giải trình, tiếp thu của Chính phủ. Bởi lẽ luật sư là những người tham gia tố tụng phải có nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động tố tụng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thực hiện chủ trương Nghị quyết 49 của Bộ chính trị cần tăng cường kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa, trong đó luật sư đóng vai trò quan trọng nên càng chú trọng công tác đào tạo nghề luật sư và các đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư phải được quy định trong luật, không để Chính phủ quy định.

Ngược với những quy định trên, dự thảo luật lại quy định các đối tượng đã từng đảm nhiệm các chức danh tư pháp là người tiến hành tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán sơ cấp thì phải có đủ 5 năm thực tế công tác trở lên, chỉ trong vòng 5 năm sau khi thôi làm chức danh đó mới được miễn đào tạo nghề luật sư là không đúng. Bởi lẽ được đào tạo bổ nhiệm chức danh tư pháp là người tiến hành tố tụng, họ đã phải trải qua thời gian đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ tố tụng dài gấp đôi đào tạo luật sư, phải có thời gian công tác thực tiễn ít nhất là từ 4 – 5 năm mới được bổ nhiệm làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên sơ cấp.

Như vậy, theo quy định của dự thảo luật người tiến hành tố tụng, khi chuyển sang làm luật sư là người tham gia tố tụng phải đào tạo lại nghề luật sư là không hợp lý. Các nước trên thế giới, trước khi làm thẩm phán, công tố viên phải có thời gian nhất định làm luật sư. Nhưng ở dự thảo luật lần này, chúng ta lại quy định ngược lại là không phù hợp, tiến tới chúng tôi cần đi theo hướng trước khi làm thẩm phán, công tố viên cần có thời gian nhất định làm nghề luật sư.

Báo cáo tiếp thu của Chính phủ không chấp nhận miễn đào tạo nghề luật sư cho điều tra viên sơ cấp, không hợp lý, vì điều tra viên cũng là người thi hành tố tụng, có đầy đủ tố chất trong hoạt động tố tụng, đã có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật để khởi tố, điều tra phục vụ ra kết luận điều tra và các hoạt động tố tụng khác. Do vậy, chúng tôi đề nghị miễn đào tạo nghề luật sư đối với điều tra viên sơ cấp như quy định hiện hành.

Về tập sự hành nghề luật sư, cơ bản chúng tôi tán thành với những quy định bổ sung nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của tập sự hành nghề luật sư, nhưng chúng tôi không tán thành, không nên quy định luật sư tập sự được tham gia tố tụng vì có liên quan đến địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng làm luật sư tại phiên tòa.

Vấn đề thứ hai, về quy định cho phép viên chức hành nghề luật sư, tại Khoản 4, Điều 17 quy định viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật vẫn thuộc diện cấp chứng chỉ hành nghề luật sư với lập luận như trong Tờ trình của Chính phủ. Chúng tôi cho rằng quy định này chưa đáp ứng định hướng phát triển của đội ngũ luật sư chuyên nghiệp có tính chuyên môn hóa cao. Mặt khác, tháng 6/2006 khi thảo luận thông qua Luật luật sư đã thảo luận cân nhắc kỹ và quyết định không chấp nhận công chức, viên chức làm luật sư, khi thảo luận thông qua Luật trợ giúp pháp lý Quốc hội khóa XI không chấp nhận viên chức trợ giúp pháp lý được làm luật sư, không có luật sư công vì tính đặc thù của luật sư. Khi tham gia tố tụng thực hiện hoàn toàn trong giờ hành chính dễ dẫn đến xung đột lợi ích giữa cung cấp dịch vụ công và dịch vụ tư. Khác hẳn với bác sỹ, làm nghề bác sỹ chữa bệnh ngoài giờ hoặc thầy giáo dạy kiến thức ngoài giờ hoặc dạy ở một cơ sở đào tạo khác theo hợp đồng, vì giảng dạy pháp luật và nghề luật sư là hai nghề hoàn toàn khác nhau, yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp cũng khác nhau và được thực hiện trong giờ hành chính nên giảng viên không thể kiêm nhiệm hoạt động cả 2 lĩnh vực sẽ không phù hợp với Luật công chức, viên chức, dễ phát sinh xung đột lợi ích và không đảm bảo chất lượng giảng dạy cũng như chất lượng tham gia tố tụng.

Thực tế trước đây khi giảng viên làm luật sư hoặc sau này làm đại diện hợp pháp trong các vụ án dân sự đều phải nhờ những người khác dạy trong thời gian tham gia tố tụng và có những vụ án kéo dài rất nhiều ngày, có vụ tới 20 ngày đã ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy trong nhà trường. Chúng tôi cũng tán thành giảng viên là người có trình độ kiến thức pháp luật cần chuyên tâm đào tạo đội ngũ luật gia có chất lượng hơn cho đất nước, nếu cần có kiến thức thực tiễn giảng viên có thể đăng ký tham dự một số phiên tòa để có thêm kinh nghiệm thực tế về hoạt động tố tụng phục vụ cho công tác giảng dạy và chủ động về thời gian tham gia phiên tòa.

Tôi cũng tán thành với việc tăng thời gian đào tạo luật sư từ 6 tháng lên 1 năm để tương quan với việc đào tạo các chức danh tư pháp, nhất là đối với một số sinh viên mới tốt nghiệp đại học tham gia đào tạo luật sư cần thời gian 1 năm mới đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên tôi vẫn đề nghị giữ lại thời gian tập sự 18 tháng theo quy định hiện hành như một số đại biểu đã phát biểu.

Một số vấn đề khác tôi xin gửi lại cho Đoàn thư ký, xin cảm ơn Quốc hội.

Trần Hồng Hà – Vĩnh Phúc

Kính thưa Quốc hội,

Sau khi nghiên cứu Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tôi xin có một số ý kiến như sau.

Thứ nhất, về điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư, tôi tán thành quan điểm cần phải quy định chặt chẽ hơn về điều kiện được miễn đào tạo nghề luật sư và thu hẹp đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ luật sư, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy, tôi đồng tình với quan điểm của Ủy ban Tư pháp là chỉ miễn đào tạo nghề luật sư đối với những người từng đảm nhiệm các chức danh tư pháp là những người tiến hành tố tụng như thẩm phán, kiểm sát viên và điều tra viên còn đối với các chức danh khác không phải là chức danh tiến hành tố tụng như thẩm tra viên, kiểm sát viên, công chứng viên, chấp hành viên, chuyên viên pháp lý, nghiên cứu viên, giảng viên v.v… thì không được miễn đào tạo nghề luật sư vì những đối tượng này không có kinh nghiệm thực tế trong hoạt động tố tụng.

Còn một vấn đề mà chưa thấy Ban soạn thảo cân nhắc đối với những người là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên nếu có vi phạm kỷ luật hoặc pháp luật mà bị kỷ luật, cách chức thẩm phán, cách chức kiểm sát viên, cách chức điều tra viên hoặc bị buộc thôi việc hoặc bị tước quân tịch thì không được miễn đào tạo nghề luật sư và những đối tượng này cần thiết phải quy định phải sau 5 năm kể từ ngày bị kỷ luật, cách chức các chức danh tiến hành tố tụng mới được tham gia hoặc hành nghề luật sư.

Vấn đề thứ hai, về các trường hợp không được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư quy định tại Điểm c, Khoản 4, Điều 17, chúng tôi cho rằng luật sư là một nghề rất cao quý được xã hội tôn trọng, là tấm gương sáng về chấp hành pháp luật. Nên tôi đề nghị quy định những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, những người đã bị kết án về bất cứ một tội gì kể cả đã được xóa án tích đều không được cấp giấy chứng chỉ hành nghề luật sư để phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời để công bằng với các chức danh tiến hành tố tụng khác vì hiện nay một trong những tiêu chuẩn để bổ nhiệm thẩm phán, bổ nhiệm kiểm sát viên và bổ nhiệm điều tra viên là chưa bao giờ bị kết án.

Thứ ba, về quy định cho phép viên chức hành nghề luật sư, tôi nhất trí với quy định về việc viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật thì không được hành nghề luật sư. Vì vấn đề này đã được Quốc hội khóa XI cân nhắc quyết định khi thông qua Luật luật sư, tháng 6 năm 2006. Đồng thời theo Báo cáo của Chính phủ số 161 năm 2012 chưa có phần giải trình về việc không quy định luật sư công trong Luật luật sư và để bảo đảm Luật luật sư chỉ điều chỉnh luật sư với tư cách là một nghề tự do hoạt động chuyên nghiệp. Hiện nay chúng ta cần phải tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn pháp lý để áp dụng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy, cần để đội ngũ viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật tập trung làm tốt nhiệm vụ quan trọng của họ và đào tạo nguồn nhân lực về nghiệp vụ chuyên viên pháp lý có chất lượng cao. Một thực tế hiện nay đặt ra là nếu cho viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư thì sẽ ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các loại vụ án. Vì công tác giảng dạy và hoạt động tố tụng diễn ra chủ yếu trong giờ hành chính nên đội ngũ này không thể vừa giảng dạy vừa tham gia hành nghề luật sư được. Thực tế cho thấy ngành tòa án đã phải hoãn nhiều phiên tòa vì vắng mặt luật sư do phải tham gia tố tụng ở phiên tòa khác, đến nay không lẽ lại phải tiếp tục hoãn nhiều phiên tòa do vắng mặt luật sư do bận phải giảng dạy và bận phải coi thi.

Thứ tư, về quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo Luật luật sư. Tôi đồng tình với quy định tại Điều 27 về sự tham gia tố tụng của luật sư, trong đó quy định đối với các vụ án hình sự vẫn duy trì việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Tuy nhiên quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị trong toàn bộ các giai đoạn tố tụng cần phải cân nhắc đến việc người yêu cầu bào chữa và luật sư có quyền thỏa thuận trong từng giai đoạn tố tụng. Vì thực tế hiện nay người yêu cầu có khi chỉ yêu cầu luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra hoặc trong giai đoạn truy tố, hoặc trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, không lẽ chúng ta lại cấp giấy chứng nhận có giá trị trong toàn bộ các giai đoạn tố tụng thì không phù hợp. Còn vì sao phải quy định tiếp tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa trong vụ án hình sự? Vì thực tế cho thấy trong tố tụng hình sự có những biện pháp ngăn chặn rất nghiêm khắc, đó là biện pháp tạm giam. Chỉ khi nào luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì mới được tiếp xúc các bị can đang bị tạm giam trong trại tạm giam và thẩm quyền thay đổi, hủy bỏ áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam là thẩm quyền riêng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, chúng ta quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa cho vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng theo tôi là chưa phù hợp trong tình hình hiện nay.

Thứ năm, về quyền và nghĩa vụ của luật sư. Tôi đồng tình cao với quan điểm của Ủy ban Tư pháp về đánh giá việc sửa đổi, bổ sung quyền, nghĩa vụ của luật sư nhằm đảm bảo tốt hơn cho việc hành nghề luật sư, góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư, góp phần đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật cũng như chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng. Tôi cho rằng hoạt động luật sư cũng như hoạt động tố tụng đều phải đề cao nguyên tắc pháp luật là tối thượng, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, luật sư phải chịu trách nhiệm về quan điểm của mình trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử. Thực tế hiện nay có nhiều luật sư trước tòa thường nêu quan điểm bị cáo không phạm tội, nhưng các bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đều khẳng định bị cáo có tội. Vì vậy, cần phải có quy định, chế tài đối với những luật sư có những hành vi, quan điểm không đúng quy định của pháp luật, nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ luật sư cũng như để luật sư thực sự là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và của công dân.

Trong thực tế hiện nay, đối với các chức danh tố tụng thì thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên nếu tiến hành tố tụng mà làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm thì có thể bị cách chức hoặc miễn nhiệm chức danh tố tụng này.

Vì vậy, không thể để luật sư ra tòa nêu quan điểm là bị cáo không có tội, trong đó theo quy định của pháp luật thì rõ ràng là bị cáo phạm tội và theo quy định của Hiến pháp thì bản án đã có hiệu lực pháp luật, đã được các cơ quan, tổ chức và công dân tôn trọng.

Tôi xin hết ý kiến. Xin cám ơn Quốc hội

Phương Thị Thanh – Bắc Kạn

Kính thưa Quốc hội.

Trước hết, tôi xin được thể hiện sự đồng tình với việc cần thiết ban hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên, việc sửa đổi bổ sung luật cần được xem xét trong tổng thể dự kiến việc sửa đổi pháp luật về tố tụng. Vì trong quy trình xây dựng luật của toàn khóa XIII thì có nội dung sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, do vậy, đề nghị Ban soạn thảo rà soát kỹ các nội dung sửa đổi của luật này với các quan điểm, nguyên tắc cần sửa đổi liên quan đến pháp luật về tố tụng và tránh tình trạng luật ban hành chưa đi vào cuộc sống đã tiếp tục xem xét, sửa đổi.

Qua gợi ý của Đoàn thư ký, tôi xin được tham gia 3 vấn đề như sau:

Vấn đề thứ nhất, về thời gian đào tạo nghề luật sư quy định tại Khoản 2 Điều 12. Tôi nhất trí với quy định thời gian đào tạo nghề luật sư là 12 tháng để nhằm tạo mặt bằng kiến thức chung về thời gian đào tạo với các chức danh tư pháp và tạo điều kiện cho học viên tích lũy thêm kiến thức về pháp luật và kỹ năng hành nghề.

Nội dung thứ hai, về việc miễn đào tạo nghề luật sư quy định tại Điều 13 và tập sự hành nghề luật sư quy định tại Điều 14. Tôi đề nghị Ban soạn thảo cần cân nhắc quy định chức danh chấp hành viên, công chứng viên, thừa phát lại, được miễn đào tạo nghề luật sư. Vì luật sư hành nghề không chỉ bằng kiến thức pháp luật mà phải có kỹ năng nghề nghiệp trải nghiệm qua thực tế trong khi đó các chức danh nêu trên không trực tiếp tham gia hoạt động tố tụng như thẩm phán, kiểm sát viên. Đào tạo nghề luật sư để trang bị tốt hơn cho học viên về kỹ năng tố tụng, kỹ năng hành nghề nhất là các chức danh không tham gia hoạt động tố tụng.

Việc quy định chức danh thuộc Khoản 2, 3, 4 Điều 13 là chỉ được xem xét miễn đào tạo nghề luật sư trong thời hạn 5 năm kể từ ngày thôi đảm nhiệm chức danh đó là quá dài, dẫn đến tình trạng người thôi giữ chức danh trên có thể bị gián đoạn việc cập nhật kiến thức pháp luật thường xuyên. Sau 5 năm thôi giữ chức danh mới được xem xét là lãng phí rất lớn về nguồn nhân lực này. Do vậy, tôi đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc là rút ngắn thời gian là 3 năm cho phù hợp.

Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu thay đổi chế định là người tập sự hành nghề luật sư bằng luật sư tập sự với lý do đại biểu Hồng đã phân tích trước tôi. Cần quy định luật sư tập sự được tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ở cấp sơ thẩm tại các tòa án cấp huyện vì các lý do là hoạt động hành nghề luật sư là hoạt động thực tiễn, nên cần phải có điều kiện để luật sư tập sự, thực hành nghề ở mức độ nhất định. Luật sư tập sự được tham gia tố tụng và còn có sự giúp đỡ của luật sư hướng dẫn và tổ chức hành nghề luật sư nên họ hoàn toàn có điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ của khách hàng. Nếu không cho luật sư tập sự tham gia tố tụng sẽ làm hạn chế về chất lượng đào tạo nghề của luật sư tập sự và hạn chế đến chất lượng của đội ngũ luật sư sau này. Đồng thời đề nghị Ban Soạn thảo cần quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của luật sư tập sự, luật sư hướng dẫn trong dự thảo luận để thuận lợi trong quá trình áp dụng luật.

Nội dung thứ ba, về quy định cho phép viên chức đang công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư, tôi đề nghị Ban soạn thảo không quy định nội dung này trong dự thảo luật, lý do đã được đề cập trong đó có thẩm tra rất kỹ của Ủy ban Tư pháp và các ý kiến phát biểu phân tích trước tôi. Nếu quy định cho phép viên chức đang làm công tác giảng dậy pháp luật được hành nghề luật sư chưa thống nhất với quy định tại đoạn 2, Khoản 4, Điều 13 của dự thảo luật. Xin hết.

Huỳnh Ngọc Ánh – TP Hồ Chí Minh

Kính thưa Quốc hội,

Tôi xin góp ý trực tiếp vào luật:

Điều 13 các đại biểu đã phân tích nhiều về người được miễn đào tạo nghề luật sư tôi không nhắc thêm, tôi hoàn toàn thống nhất với ý kiến các đại biểu. Tôi nói thêm một ý như sau: Nếu chúng ta để thiết kế điều luật như thế này thì so luật này với Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân thì thấy thẩm phán sơ cấp và luật sư là 2 đẳng cấp khác nhau rõ rệt bởi vì làm thẩm phán 5 năm mới được bổ nhiệm luật sư. Để làm được thẩm phán phải hết ít nhất 14 năm, 4 năm trong trường luật, 4 năm thực tiễn công tác, 1 năm đào tạo chức danh thẩm phán là 9 năm, cộng với 5 năm làm thẩm phán sơ cấp thì thành 14 năm. Trong khi luật sư chỉ có 4 năm học luật, 2 năm đào tạo luật sư là có thể công nhận luật sư. Tôi thấy đẳng cấp này khác nhau.

Nếu thiết kế theo Điều 4 điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên, thừa phát lại mà như thế này như Điều 4 thì rõ ràng thẩm phán và kiểm sát viên sơ cấp cũng 2 đẳng cấp khác nhau, chứng tỏ thẩm phán thấp hơn nhiều so với điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên. Hiện nay điều tra viên, chấp hành viên cũng đều có sơ cấp, trung cấp và cao cấp đều có phân định, nhưng trong luật thì không phân biệt. Riêng thẩm phán và kiểm sát viên lại phân biệt. Tôi không hiểu thiết kế luật chỗ này như thế nào, vấn đề này nên xem lại. Đọc thì thấy đẳng cấp của thẩm phán thấp hơn.

Tại Điểm a, Khoản 4 Điều 17 cho phép viên chức làm công tác giảng dạy hay không đã được nhiều người nói. Tôi cho rằng giải trình như bản giải trình của Chính phủ ngày 18/6/2012 là không thuyết phục, không phải để phát triển nhanh đội ngũ luật sư đáp ứng với yêu cầu hiện đại mà sử dụng đội ngũ giáo viên luật đang dạy để bổ sung vào đội ngũ luật sư. Khi ban hành Luật luật sư năm 2006 Quốc hội đã bàn thảo nhiều về vấn đề này, đưa ra nhiều luận cứ xác đáng để không đồng ý các viên chức đang làm công tác giảng dạy vào nghề luật sư. Cho đến nay những luận cứ ấy vẫn còn nguyên giá trị chưa có gì biến đổi lớn trong đời sống xã hội. Liên đoàn luật sư vẫn đang phát triển không ngừng, không có lý do gì để cần sửa đổi luật ở phần này.

Thứ hai, nhu cầu của xã hội không phải đòi hỏi bức xúc, không có gì bất cập trong việc này cho nên không đòi hỏi bức xúc mà chúng ta phải đưa đội ngũ giáo viên luật bổ sung vào luật sư.

Thứ ba, luật sư là một nghề đặc biệt cho nên tôi cũng đồng tình với các đại biểu là không có kiêm nhiệm. Thẩm phán, kiểm sát viên không được làm gì, kể cả tham gia cổ phần, cổ phiếu, các vấn đề khác để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán, kiểm sát viên thì cớ gì luật sư lại được kiêm nhiệm, tôi cho rằng điều này cũng là bất cập.

Về góc độ thực tiễn, luật sư là giảng viên giảng dạy luật trong các trường đại học đào tạo thạc sĩ, đào tạo tiến sĩ và hiện nay họ đang hướng dẫn rất nhiều các chánh án, phó chánh án, thẩm phán, các viện trưởng, viện phó viện kiểm sát, kiểm sát viên rất nhiều trên toàn quốc, liệu họ tham gia bào chữa tố tụng tại phiên tòa có ảnh hưởng đến tính độc lập của thẩm phán hay không? Tôi suy nghĩ là chắc chắn có, đây là một sự thật chúng ta không thể từ chối được.

Thứ hai, có nhiều đại biểu Quốc hội nói rằng giáo viên cần phải có thực tiễn cho nên phải thông qua như thế này thế kia, thưa là giáo viên vẫn đi thực tiễn, không phải làm nghề luật sư mới có điều kiện tham gia thực tiễn, chính nhà trường bố trí dạy ít để có thời gian đi thực tiễn nhiều để bổ sung vào vấn đề giảng dạy chứ không phải làm nghề luật sư mới bổ sung về giảng dạy được.

Thứ ba, cái gì cũng thế, có mặt lợi cũng có mặt hại. Nếu những luật sư đó tham gia tố tụng mà thắng kiện không sao, nếu thua kiện thì suốt ngay rêu rao với học viên hết khóa này, khóa khác, kích bác thẩm phán dẫn đến ảnh hưởng tâm lý của thẩm phán.

Thứ tư, pháp luật chúng ta luôn luôn tìm mọi cơ chế, mọi biện pháp để đảm bảo tính độc lập cho thẩm phán, trong khi chúng ta lại đưa đội ngũ này vào để bào chữa những vụ án tham gia tố tụng như vậy thì có khác nào nói một đường làm một nẻo, ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán, tôi cho rằng như vậy không đúng. Còn rất nhiều vấn đề thực tiễn về vấn đề này, nhiều bài học để rút ra nhưng không có thời gian để trình bày.

Về vấn đề quyền và nghĩa vụ của luật sư. Tôi cho rằng đây là điều mong đợi nhất trong thời gian vừa qua. Trong thời gian qua tổ chức và hoạt động của luật sư bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không có quyết định, chế tài đảm bảo hiệu quả để cho luật sư có mặt tham gia tố tụng đúng quy định, thiếu quy định về xử lý trách nhiệm của luật sư trong việc thực hiện nghĩa vụ với khách hàng, quy định về quyền và nghĩa vụ của luật sư hiện hành không những chưa khẳng định được vị trí của luật sư mà còn không tạo ra được cơ chế ngăn ngừa những hành vi tiêu cực có thể xảy ra. Thực tế các vị đại biểu cũng biết rằng, trong thực tế việc luật sư muốn đến lúc nào thì đến, thậm chí phiên tòa mở rồi thông báo trước đến ngay khi mở phiên tòa xin hoãn mà nhất là những vụ án xâm phạm đến an ninh quốc gia, một sự chuẩn bị cả một phiên tòa như thế hết sức công phu suốt cả ba ngành kể cả các hệ thống chính trị để chuẩn bị cho một phiên tòa, nhưng rồi khi mở phiên tòa luật sư xin hoãn làm rất mất thời gian và rất mất công sức.

Thứ ba, phát ngôn không chuẩn mực, không đúng mức, tùy tiện, ví dụ như luật sư tranh luận mà đang tranh luận tại phiên tòa với Viện kiểm sát, hai bên tranh luận không vào trọng tâm vấn đề, thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu cắt ngừng, sẵn sàng luật sư lên tiếng tôi sẽ làm đơn tố ông về tội vi phạm qui định Nghị quyết 49 Bộ Chính trị về vấn đề vi phạm tranh luận tại phiên tòa. Một câu nói như thế thôi cũng ảnh hưởng tác động đến tính độc lập của thẩm phán, tác động tâm lý rất lớn. Cho nên những vấn đề này tôi nghĩ cũng cần phải đưa vào quy chế luật cho đầy đủ. Tôi đề nghị trong luật sửa đổi lần này phải xây dựng thành những điều luật cụ thể trong luật về quy tắc đạo đức, quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hoạt động của luật sư để có chế tài đúng đắn.

Về Điều 17, cấp chứng chỉ hành nghề cho luật sư, tôi cho rằng điều này chúng ta thiết kế bộ luật quá dài, cho nên đề nghị chia hai phần về Điều 27 về tố tụng tôi đề nghị thiết kế luật theo điều này sẽ mở hơn, bởi sắp tới đây chúng ta sửa luật tố tụng hình sự chưa biết có cấp giấy chứng nhận hay không cấp giấy chứng nhận nhưng hiện nay đang là cấp giấy chứng nhận. Cho nên trong Điều 27 chúng ta chỉ cần ghi một câu: về việc cấp giấy chứng nhận luật sư thì thực hiện theo luật hiện hành tố tụng hình sự. Tôi xin hết ý kiến. Cảm ơn Quốc hội.

Trịnh Xuyên – Thanh Hoá

Kính thưa Quốc hội.

Trước hết, tôi thống nhất với Tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban tư pháp về luật sửa đổi bổ sung Luật luật sư. Trong lần này luật sửa tới 28 điều và bổ sung thêm 2 điều mới và bỏ đi 3 điều trong 94 điều của Luật năm 2006. Những nội dung sửa đổi, bổ sung lần này tôi nghiên cứu và nhận thức thấy về cơ bản phù hợp và có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở thực tiễn để chúng ta phát triển nhanh về số lượng luật sư và đảm bảo được chất lượng luật sư trong điều kiện hiện nay.

Trong tình hình hiện nay của đất nước chúng ta, có thể nói luật sư đang thiếu rất nhiều. Đặc biệt, luật sư còn nhiều vấn đề hạn chế. Nhất là chưa có nhiều luật sư giỏi và có tầm cỡ quốc tế. Cho nên, việc sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật luật sư trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết, để đáp ứng được yêu cầu và nhu cầu trong đời sống xã hội cũng như hội nhập quốc tế.

Về tham gia một số vấn đề cụ thể. Rất nhiều ý kiến của các đại biểu đã tham gia, ngay ở các buổi thảo luận tổ chúng tôi cũng đã tham gia, Ban soạn thảo cũng đã thẩm tra, tiếp thu đầy đủ, chặt chẽ. Chúng tôi xin tham gia một số ý kiến cụ thể như sau:

Vấn đề thứ nhất, về những người được miễn, giảm đào tạo nghề luật sư và tập sự hành nghề luật sư. Trong dự thảo đưa ra rất nhiều đối tượng. Tôi xin tham gia 2 ý về vấn đề này như sau: trong luật không nên quy định giảm đào tạo và giảm tập sự hành nghề luật sư mà chỉ quy định được miễn thôi. Nếu các đối tượng được giảm về đào tạo và hành nghề luật sự thì sau này hướng dẫn luật sẽ có quy định cụ thể. Như thế tôi cho là phù hợp.

Trong dự thảo luật lần này thì quy định tương đối rộng về các đối tượng được miễn. Như thế này chúng tôi cho là không chặt chẽ và chưa phù hợp. Về quan điểm cá nhân, chúng tôi thấy người được miễn đào tạo và được miễn tập sự nghề luật sư thì tập trung vào 4 nhóm đối tượng: đối tượng thứ nhất là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ luật; thứ hai là thẩm phán; thứ ba là kiểm sát viên và thứ tư là điều tra viên. Trong đây về điều tra viên thì kể cả điều tra viên từ sơ cấp trở lên. Trong luật thì quy định đối với điều tra viên cao cấp thôi. Điều tra viên khi được bổ nhiệm điều tra viên sơ cấp thì đã tốt nghiệp các trường đại học luật, trường đại học trong ngành công an và có thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật ít nhất 3 năm trở lên. Vì vậy, chúng tôi cho rằng đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, kể cả điều tra viên sơ cấp trở lên trong lực lượng công an, quân đội. Chúng tôi cho rằng đủ điều kiện để được miễn đào tạo và không phải tập sự nghề luật sư. Chúng tôi thấy quy định như thế này rất chặt chẽ, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu. Còn lại các đối tượng khác chúng tôi cho rằng phải đào tạo và tập sự nghề luật sư, quy định như vậy rất rõ và đầy đủ, rất chặt chẽ.

Vấn đề thứ hai, về thời gian đào tạo và tập sự, cũng đã có nhiều ý kiến tham gia và có những quan điểm khác nhau. Riêng về cá nhân tôi, tôi thấy quy định 12 tháng là phù hợp, đào tạo nghề luật sư là 12 tháng, tập sự nghề luật sư là 12 tháng cộng với học trong trường và ra làm việc chúng tôi cho rằng thời gian như thế này đủ điều kiện hành nghề luật sư. Như một số đại biểu trước đã phát biểu, so sánh điều tra viên, thẩm phán và kiểm sát viên, chúng tôi cho rằng không phải hoàn toàn như vậy. Đối với nghề luật sư chỉ hoạt động một phần về lĩnh vực pháp luật thôi, do vậy thời gian 12 tháng quy định như luật là hoàn toàn phù hợp.

Vấn đề thứ ba, về luật sư tập sự trong luật quy định không được bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và đại diện cho khách hàng tại phiên tòa, không được ký vào các biên bản tư pháp, chúng tôi cho rằng quy định này là đúng với luật. Đây là hoạt động tố tụng cả về hình sự và tố tụng dân sự. Vì vậy, trong thời gian này luật sư không được tham gia vào các công việc này là hoàn toàn phù hợp với luật tố tụng, đảm bảo tính nghiêm minh, chặt chẽ và chịu trách nhiệm trước luật. Trong này không cần quy định luật sư trong thời kỳ này được giúp đối với luật sư chính và hướng dẫn thêm một số công việc pháp luật cho khách hàng, chúng tôi cho rằng không cần thiết vì đây là những quan hệ và những thỏa thuận về dân sự và hành chính, nó không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này.

Vấn đề thứ tư, về tham gia hoạt động tố tụng của luật sư, trong này quy định đối với luật sư trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính thì luật sư chỉ cần xuất trình đối với 2 loại giấy tờ đó là thẻ và giấy yêu cầu của khách là đủ thì chúng tôi cho rằng vấn đề này hoàn toàn phù hợp.

Riêng đối với các vụ án hình sự thì luật phải quy định 3 loại giấy tờ. Một là thẻ luật sư, hai là giấy yêu cầu bào chữa và thứ ba là giấy chứng nhận bào chữa do cơ quan tố tụng cấp. Quy định như thế này, chúng tôi cho là phù hợp.

Vấn đề thứ năm, về cấp thẻ và chứng chỉ hành nghề và quản lý luật sư, chúng tôi đề nghị trong luật nên quy định luật sư có 3 bậc là luật sư cao cấp, luật sư trung cấp và luật sư sơ cấp. Quy định như thế này thì nó cũng phù hợp với hệ của điều tra viên, kiểm sát viên, quy định như thế này thì chúng ta gắn với việc quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này thì chúng tôi cho rằng phù hợp hơn. Tôi xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

Lương Văn Thành – TP Hải Phòng

Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Về cơ bản nhất trí cao với Báo cáo tiếp thu của Chính phủ, cũng như chia sẻ với các ý kiến của các đại biểu đã phát biểu trước tôi. Tôi cũng đã chuẩn bị một số ý kiến nhưng có trùng lặp rất nhiều, do vậy tôi xin không nhắc lại, sau đây tôi xin đề cập đến một số vấn đề còn có những quan điểm khác nhau và bày tỏ quan điểm của mình.

Thứ nhất là về các trường hợp đã bị kết án về tội nghiêm trọng đã được xóa án tích không được hành nghề luật sư.

Luật sư là một nghề cao quý có trách nhiệm bảo vệ công lý và tiêu chuẩn của luật sư ngoài điều kiện về chuyên môn phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Do đó, đối với những người đã bị kết án là những người bị coi là có tội đã được Tòa án nhân danh Nhà nước kết một bản án, mặc dù được xóa án, nhưng được đánh giá đó là những người có nhân thân, bây giờ là những người thân nhân xấu mà lại trực tiếp đứng tham gia tranh tụng lại với Hội đồng xét xử thì tôi nghĩ rằng ở đây có một vấn đề để đảm bảo uy tín của tổ chức luật sư, cũng như đảm bảo một giá trị về công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quan điểm chúng tôi cho rằng, đối với những người đã phạm tội nghiêm trọng do cố ý và bị kết án không nên cấp thẻ luật sư, không nên cho họ hành nghề luật sư sẽ là phù hợp.

Vấn đề thứ hai, về quyền và nghĩa vụ luật sư, quy định về quyền và nghĩa vụ luật sư đã được tiếp thu rất đầy đủ ở trong Báo cáo tiếp thu, giải trình, ở đây đã quy định các hành vi bị nghiêm cấm cũng như một số việc luật sư không được làm, khắc phục những việc thông cung, mớm cung, xúi giục khách hàng khiếu nại, khiếu kiện, đảm bảo việc luật sư có mặt đầy đủ tại các phiên tòa. Tuy nhiên, tôi nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ, ở đây chưa có chế tài nào nếu như luật sư vi phạm quyền và nghĩa vụ của mình.

Theo quan điểm của tôi, nên bổ sung một điểm ở Khoản 1, Điều 21 quy định chế tài đối với luật sư, nếu luật sư vi phạm các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật này, tùy theo mức độ sẽ bị thu hồi chứng chỉ hành nghề, phải bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự do hành vi trái pháp luật gây ra. Thực tế hiện nay có những việc luật sư không đến tham dự phiên tòa, mặc dù phiên tòa đã chuẩn bị rất kỹ, gây thiệt hại rất lớn đối với việc tổ chức phiên tòa. Nếu không quy định các chế tài cụ thể ở trong điều luật này sẽ không có tính chất phòng ngừa. Do vậy, cần bổ sung thêm một khoản của Điều 21 là quy định đối với các chế tài, đối với các luật sư vi phạm điều cấm trong quy định này.

Về vấn đề thứ ba, cho phép viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư hay không?. Tôi xin phép tiếp cận vấn đề hiện nay tỷ lệ các vụ án có các luật sư tham gia chưa phải là nhiều, mới chỉ tập trung tại các thành phố lớn, ở nhiều huyện ngoại thành, ở các vùng sâu, vùng xa, có những đơn vị hàng tháng trời, hàng năm trời không có luật sư tham gia. Do vậy, liệu các giảng viên ở các trung tâm, các trường đại học luật có đến được các vùng sâu, vùng xa để thực hiện nhiệm vụ này không?

Vấn đề tiếp, chúng tôi thấy cần cân nhắc lợi ích của giảng viên dạy pháp luật khi tham gia làm luật sư với lợi ích của Nhà nước, của xã hội khi tổ chức các phiên tòa xét xử, ở đây chúng ta phải xem xét hai lợi ích này để quyết định. Quan điểm cá nhân tôi và qua thực tiễn chúng tôi cho rằng giảng viên làm công tác giảng dạy pháp luật hãy tập trung làm công tác chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ cao quý của mình. Nếu như việc cần tham gia các phiên tòa để bổ sung thêm kiến thức thì có rất nhiều điều kiện cho các giảng viên này được tăng cường năng lực của mình bằng cách tham dự các phiên tòa và nghiên cứu các hồ sơ, quan điểm cá nhân tôi là không nên quy định giảng viên pháp luật tham gia luật sư.

Nội dung cuối cùng về việc cấp và đổi thẻ luật sư. Chúng ta hiện nay đang đẩy mạnh cải cách hành chính và tăng cường phân cấp, phân quyền quản lý cho các đoàn luật sư, do vậy thực chất việc cấp thẻ luật sư chỉ là hình thức xác nhận về danh luật sư, do đó việc cấp thẻ và đổi thẻ luật sư nên giao cho đoàn luật sư các tỉnh, nó sẽ giải quyết được vấn đề cải cách hành chính nhanh, gọn, kịp thời, không phải tập trung các luật sư đều phải lên liên đoàn trên Trung ương để làm mỗi việc cấp thẻ luật sư. Trên đây là quan điểm của tôi, xin cảm ơn Quốc hội.

Lò Hải Ươi – Lai Châu

Kính thưa Quốc hội,

Trước tiên tôi cơ bản đồng tình và nhất trí với dự thảo luật trình Quốc hội lần này. Tuy nhiên tôi xin tham gia một số ý kiến như sau:

Về chức năng xã hội của luật sư được quy định tại Điều 3, tôi cho rằng việc bổ sung chức năng bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân là không phù hợp. Các quyền tự do dân chủ có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều quyền khác nhau như quyền được học tập, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, quyền bầu cử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo v.v… Song không phải quyền tuyệt đối theo ý muốn của cá nhân mà là quyền tự do dân chủ trong khuôn khổ pháp luật xã hội chủ nghĩa. Mặt khác cụm từ “quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” đã bao hàm cả các quyền tự do dân chủ hợp pháp của công dân, do đó tôi đề nghị bỏ cụm từ “các quyền tự do dân chủ của công dân”. Về tập sự hành nghề luật sư Điều 14 tôi đề nghị sửa hai điểm:

Điểm thứ nhất, cần quy định người tập sự hành nghề luật sư được tham gia tố tụng, bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ở cấp sơ thẩm tại các tòa án quận, huyện vì các lý do sau:

Thứ nhất, hoạt động nghề luật sư là hoạt động thực tiễn nên cần tạo điều kiện cho các luật sư tập sự được trải nghiệm ở một mức độ nhất định về thực tế tham gia tố tụng mới đảm bảo chất lượng hành nghề của họ sau này.

Thứ hai, người tập sự hành nghề luật sư được tham gia tố tụng dưới sự theo dõi, giám sát giúp đỡ của luật sư hướng dẫn và tổ chức hành nghề luật sư nên họ hoàn toàn có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ đối với khách hàng.

Thứ ba, nếu tiếp tục không cho người tập sự hành nghề luật sư tham gia tố tụng sẽ làm hạn chế chất lượng học nghề của các luật sư tập sự, hạn chế chất lượng đội ngũ luật sư sau này.

Điểm thứ hai, thời gian người tập sự hành nghề luật sư nên giữ như quy định của Luật luật sư năm 2006 là 18 tháng chứ không giảm xuống 12 tháng như dự thảo luật Điều 14, Khoản 1 của dự thảo.

Về kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư Điều 15, tôi thấy Khoản 2, Điều 15 dự thảo luật quy định việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư do hội đồng kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư tiến hành xong lại chỉ quy định về chủ tịch hội đồng còn số lượng thành viên hội đồng gồm bao nhiêu người thuộc các cơ quan, đơn vị nào, điều kiện là thành viên v.v… thì không có quy định. Dự thảo cũng không giao cho Chính phủ quy định cụ thể nội dung này. Như vậy sẽ khó khăn cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam khi thành lập và điều hành hoạt động của hội đồng trong thực tế. Do đó tôi đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu cân nhắc bổ sung thêm nội dung này cho phù hợp.

Về cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, Điều 17 dự thảo luật quy định theo hướng mở rộng đối với người phạm tội nghiêm trọng do cố ý đã được xóa án tích. Theo tôi việc sửa đổi nội dung này là không phù hợp với tiêu chuẩn luật sư về phẩm chất đạo đức và ý thức tuân thủ Hiến pháp, pháp luật được quy định tại Điều 10 Luật luật sư, cũng không phù hợp với chức năng xã hội của luật sư và tính chất hoạt động luật sư trong lĩnh vực tư pháp. Vì vậy, theo tôi không nên sửa đổi nội dung này.

Về quyền của tổ chức hành nghề luật sư, dự thảo luật đã quy định khá rõ ràng, đầy đủ các quyền nhằm đảm bảo cho tổ chức hành nghề luật sư hoạt động một cách thuận lợi và phát huy vai trò của mình trong lĩnh vực pháp luật và thực hiện chức năng xã hội của luật sư. Tuy nhiên, tại Khoản 4, tôi đề nghị bỏ từ “yêu cầu” vì quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc của cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước phải là một quyền mang tính chủ động, thể hiện trách nhiệm của tổ chức đó với Nhà nước, xã hội và thực hiện đúng bản chất của hoạt động luật sư. Nếu tổ chức hành nghề luật sư thực hiện quyền này theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân của cơ quan có thẩm quyền thì đây lại trở thành một nghĩa vụ phải làm mang tính bị động chứ không phải là một quyền.

Bên cạnh đó, tôi đề nghị sửa đổi Khoản 7 như sau: Quyền thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện nước ngoài nhằm đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan về tên gọi. Tôi xin hết ý kiến. Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.

Phạm Tất Thắng – Vĩnh Long

Kính thưa Chủ tọa phiên họp.

Kính thưa Quốc hội.

Phát biểu tại thời điểm này tôi xin không phân tích và xin bày tỏ sự nhất trí cao với việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư năm 2006 theo quan điểm tại tờ trình của Chính phủ cũng như báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. Tôi đánh giá cao cách làm của Ban soạn thảo và chuẩn bị tài liệu rất đầy đủ. Ngay sau khi thảo luận tổ thì Ban soạn thảo có ý kiến giải trình, tiếp thu các ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại phiên thảo luận tổ. Với góc độ cá nhân, tôi xin tham gia vào một nội dung, còn những nội dung khác các đại biểu trước tôi đã phát biểu và phân tích kỹ, tôi xin không phát biểu lại. Tôi chỉ phát biểu một nội dung tôi thấy rất quan tâm đó là trong bản dự thảo luật lần này sửa đổi rất nhiều tới 1/3 số điều nhưng tôi rất quan tâm đến một điều không thấy Ban soạn thảo đề nghị sửa đổi, đó là Điều 10 về tiêu chuẩn luật sư.

Tôi nghĩ Điều 10 nếu sửa đổi sẽ có tác động rất lớn và có thể thay đổi một cách cơ bản đến việc nâng cao chất lượng cũng như số lượng đội ngũ luật sư của chúng ta trong thời gian tới và Điều 10 của Luật luật sư hiện nay qui định tiêu chuẩn luật sư phải có bằng cử nhân luật và hệ quả của nó là Điều 12 qui định có bằng cử nhân luật mới được tham dự khóa đào tạo nghề luật sư. Nội dung này cũng cơ bản giữ nguyên như Điều 12 của Luật luật sư năm 2006.

Theo tôi qui định như vậy đã và sẽ dẫn đến việc bỏ phí một lực lượng có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại v.v… lĩnh vực càng ngày càng có thường xuyên cần đến dịch vụ của luật sư. Nhất là sau khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới, các vụ kiện thương mại ngày càng nhiều mà do không có đội ngũ luật sư có khả năng hoạt động quốc tế, am hiểu lĩnh vực kinh tế chúng ta đã phải tốn nhiều ngoại tệ để thuê luật sư nước ngoài. Quy định như vậy đã dẫn đến đội ngũ luật sư được hình thành ở nước ta hiện nay chủ yếu chuyên sâu lĩnh vực tranh tụng hoặc tư vấn pháp lý, các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, kinh tế v.v… có tỷ lệ vụ việc và các luật sư tham gia rất thấp. Đội ngũ luật sư chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh thương mại bao gồm sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, hàng không, hàng hải, thương mại quốc tế v.v… chỉ mới đang trong quá trình hình thành và nếu chỉ để các luật sư theo như qui định hiện nay có bằng cử nhân luật học tập thêm các lĩnh vực khác thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian và cũng khó chuyên sâu các lĩnh vực khác với pháp luật như tôi đã nêu ở trên.

Vì vậy, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sửa đổi Điều 10 của luật để theo hướng mở rộng đối tượng có thể được đào tạo trở thành luật sư là liên quan đến Điều 10. Sửa đổi Điều 12 về đối tượng tham gia đào tạo luật sư và Khoản 2 của Điều 12, tức là về thời gian đào tạo thì những đối tượng mà không phải là cử nhân luật thì có thời gian đào tạo có thể sẽ dài hơn vì trang bị thêm những kiến thức pháp lý cần thiết khác. Tôi xin nêu một nội dung mà chưa thấy đại biểu nào phát biểu. Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.

Uông Chu Lưu – Phó Chủ tịch Quốc hội

Kính thưa Quốc hội,

Trong phiên họp chiều hôm nay đã có 27 đại biểu Quốc hội đăng ký phát biểu ý kiến, cho đến lúc này đã có 23 đại biểu phát biểu ý kiến tại hội trường, còn 4 đại biểu đã đăng ký phát biểu nhưng do thời gian không cho phép cho nên mời các đồng chí gửi ý kiến lại bằng văn bản cho Đoàn thư ký. Nhìn chung ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội đều nhất trí cao với việc cần sớm ban hành luật này và ý kiến phát biểu rất phong phú, sôi nổi tập trung vào những vấn đề chính của dự án luật mà Đoàn thư ký kỳ họp đã gợi ý. Nhiều ý kiến lập luận rất sắc bén, xác đáng, có nhiều gợi ý cụ thể cho từng nội dung một. Chúng tôi xin ghi nhận đầy đủ và sẽ báo cáo giải trình trong kỳ họp sau khi xem xét thông qua dự án luật này.

Về những vấn đề cụ thể có thể nói là mỗi loại vấn đề cho đến lúc này vẫn còn 2 loại ý kiến nhưng cũng có những vấn đề thì đa số ý kiến nhất trí với dự thảo, nhưng cũng có những vấn đề lại chưa đồng ý với dự thảo, ví dụ như vấn đề miễn đào tạo nghề luật sư, tập sự hành nghề luật sư. Tôi chỉ xin nêu một ý là bây giờ luật sư tập sự hành nghề có được tham gia tố tụng trong giai đoạn sơ thẩm hay không, đây cũng là vấn đề ý kiến rất khác nhau. Chúng tôi cũng nhận định ý kiến của nhiều đoàn luật sư cho rằng đã tập sự mà lại không được tham gia hoạt động thì cũng giống như kiểu người đi học bơi mà không nhảy xuống nước thì làm sao bơi được, đây là những vấn đề ý kiến rất khác nhau.

Về vấn đề người đã là giảng viên có được tham gia làm luật sư không, bây giờ ý kiến cũng rất khác nhau, mỗi bên đều có lập luận, lý lẽ của mình. Chỗ này chúng tôi đề nghị cân nhắc một ý để các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, đối với giảng viên thì việc tham gia tố tụng bào chữa thì không nên như đa số ý kiến đề nghị nhưng đối với hoạt động tham gia tư vấn thì có được không. Đây cũng là gợi ý để các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan tiếp tục nghiên cứu.

Về vấn đề quyền và nghĩa vụ của luật sư có ý kiến đồng ý với dự thảo nhưng đề nghị nghiên cứu để bổ sung thêm chế tài, khi luật sư vi phạm pháp luật hay luật sư vi phạm quy chế đạo đức hành nghề của mình thì có chế tài gì để ràng buộc trách nhiệm của luật sư hơn.

Vấn đề quyền hạn của liên đoàn luật sư, của đoàn luật sư, ở các điều này ý kiến chung là đều tán thành cần tăng cường rõ hơn quyền tự quản và trách nhiệm của liên đoàn luật sư, đoàn luật sư. Đây là những vấn đề có thể nói còn ý kiến khác nhau nhưng cơ bản là thống nhất với dự thảo. Trong quá trình thảo luận, nghiên cứu, đề nghị cơ quan chủ trì thẩm tra, Bộ tư pháp là cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan tổ chức hữu quan làm Báo cáo giải trình, tiếp thu đầy đủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ tư khi xem xét thông qua dự án luật này. Xin cảm ơn Quốc hội.

(Quốc hội nghỉ)

 

 




========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai