Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
PHÂN TÍCH CÁC KHÍA CẠNH PHÁP LÝ TỘI CƯỠNG ÉP KẾT HÔN, CẢN TRỞ KẾT HÔN
Tại Điều 146 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS) có quy định hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đến mức bị coi là tội phạm là trường hợp: “… cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm…”.
Hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như:
Hành hạ: là hành vi đối xử tàn ác người lệ thuộc vào mình làm cho họ đau đớn, khổ sở về thể xác như đánh đập…tuy chưa đến mức gây thương tích hoặc tổn hại đáng kể đến sức khỏe của nạn nhân nhưng diễn ra một cách có hệ thống.
Ngược đãi: là hành vi đối xử tồi tệ người lệ thuộc mình nhằm gây những đau khổ tinh thần kéo dài như thường xuyên mắng chửi, sỉ vả, làm nhục, đuổi ra khỏi nhà…
Uy hiếp tinh thần: là hành vi đe dọa dùng vũ lực gây thiệt hai đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản hoặc dùng uy lực đe dọa sẽ không cho hưởng lợi ích quan trọng, thiết thân nào đó, làm cho người bị đe dọa có căn cứ lo thực sự.
Yêu sách của cải: là hành vi đòi hỏi của cải như là một trong những điều kiện bắt buộc để được kết hôn như cố tình thách cưới cao một cách không bình thường làm cho bên bị thách cưới không thể lo liệu được để lấy cớ không cho kết hôn.
Những thủ đoạn khác: là những thủ đoạn bất hợp pháp khác có tính chất tương tự như các thủ đoạn nói trên như dùng vũ lực bắt ép người con gái phải đi theo mình trái với ý muốn của họ (trường hợp này khác với tục lệ bắt cóc cô dâu tại một số vùng dân tộc ít người ở nước ta)…
Hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ theo một trong những thủ đoạn trên chỉ bị coi là phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện khi người thực hiện hành vi đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tiếp tục thực hiện hành vi này.
Như vậy, trường hợp thực hiện hành vi lừa dối người khác để người đó đồng ý kết hôn với mình tuy cũng là trường hợp vi phạm nguyên tắc tự nguyện kết hôn nhưng không bị coi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn vì không có yếu tố cưỡng ép. Cho nên, người thực hiện hành vi nói trên sẽ không bị coi là phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa xã hội là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Người phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là người có hành vi xâm phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ – nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo luật định (từ đủ 16 tuổi trở lên). Trong thực tế, chủ thể của tội phạm này là người có quan hệ nhất định với người phụ nữ về mặt gia đình (bố, mẹ, anh, chị…) hoặc về mặt xã hội (thủ trưởng với nhân viên dưới quyền)…
Người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Tại Điều 146 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS) có quy định hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đến mức bị coi là tội phạm là trường hợp: “… cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm…”.
Hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như:
Hành hạ: là hành vi đối xử tàn ác người lệ thuộc vào mình làm cho họ đau đớn, khổ sở về thể xác như đánh đập…tuy chưa đến mức gây thương tích hoặc tổn hại đáng kể đến sức khỏe của nạn nhân nhưng diễn ra một cách có hệ thống.
Ngược đãi: là hành vi đối xử tồi tệ người lệ thuộc mình nhằm gây những đau khổ tinh thần kéo dài như thường xuyên mắng chửi, sỉ vả, làm nhục, đuổi ra khỏi nhà…
Uy hiếp tinh thần: là hành vi đe dọa dùng vũ lực gây thiệt hai đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản hoặc dùng uy lực đe dọa sẽ không cho hưởng lợi ích quan trọng, thiết thân nào đó, làm cho người bị đe dọa có căn cứ lo thực sự.
Yêu sách của cải: là hành vi đòi hỏi của cải như là một trong những điều kiện bắt buộc để được kết hôn như cố tình thách cưới cao một cách không bình thường làm cho bên bị thách cưới không thể lo liệu được để lấy cớ không cho kết hôn.
Những thủ đoạn khác: là những thủ đoạn bất hợp pháp khác có tính chất tương tự như các thủ đoạn nói trên như dùng vũ lực bắt ép người con gái phải đi theo mình trái với ý muốn của họ (trường hợp này khác với tục lệ bắt cóc cô dâu tại một số vùng dân tộc ít người ở nước ta)…
Hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ theo một trong những thủ đoạn trên chỉ bị coi là phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện khi người thực hiện hành vi đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tiếp tục thực hiện hành vi này.
Như vậy, trường hợp thực hiện hành vi lừa dối người khác để người đó đồng ý kết hôn với mình tuy cũng là trường hợp vi phạm nguyên tắc tự nguyện kết hôn nhưng không bị coi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn vì không có yếu tố cưỡng ép. Cho nên, người thực hiện hành vi nói trên sẽ không bị coi là phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa xã hội là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Người phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là người có hành vi xâm phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ – nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo luật định (từ đủ 16 tuổi trở lên). Trong thực tế, chủ thể của tội phạm này là người có quan hệ nhất định với người phụ nữ về mặt gia đình (bố, mẹ, anh, chị…) hoặc về mặt xã hội (thủ trưởng với nhân viên dưới quyền)…
Người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư bào chữa vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT DRAGON
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 599 979
Website: www.vanphongluatsu.com.vn
Email : dragonlawfirm@gmail.com
Facebook : https://www.facebook.com/vanphongluatsudragon
Văn phòng Luật sư tại Hà Nội: Phòng 14.6, Tầng 14, Tòa nhà Vimeco, đường Phạm Hùng, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.
Văn Phòng Luật Sư tại Hải Phòng: Phòng 4.6 Tòa nhà Khánh Hội, Lô 2/3C đường Lê Hồng Phong, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT DRAGON
Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư: Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy: Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai