Vụ án “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng…” xảy ra tại Công ty Cổ phần Vật tư Bưu điện, đã được TAND TP.HCM đưa ra xét xử trong 3 ngày 25, 26, 27/5/2011. Sau khi nghe các luật sư bào chữa và tranh luận, Hội đồng xét xử đã quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ các vấn đề do luật sư nêu ra tại phiên tòa. Bản Tin Luật Sư đăng lại Bài bào chữa của Luật sư Nguyễn Văn Trung- Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM để các đồng nghiệp tham khảo và rút kinh nghiệm.

Kính thưa Hội đồng xét xử,

Tôi là Luật sư Nguyễn Văn Trung bào chữa cho bị cáo Vũ Huy Hòang, nguyên giám đốc Trung tâm kinh doanh 1 thuộc Cty CP Vật tư Bưu Điện, bị VKSND tối cao truy tố về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, theo khoản 2 Điều 165 Bộ Luật Hình sự. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, chúng tôi xin có ý kiến như sau:

I/-Về mặt hành vi

Hành vi vi phạm trong việc hợp thức hóa chứng từ kế toán đối với các khoản  chi phí có thật phục vụ sản xuất kinh doanh (SXKD) nhưng không có chứng từ quyết toán đã rõ. Tuy  nhiên, có phải Vũ Huy Hoàng đã lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế hay không? Cần làm rõ nguyên nhân, động cơ, mục đích của hành vi này.

1/-Về chức vụ quyền hạn

Trung tâm kinh doanh 1 (cũng như tất cả các trung tâm khác trong công ty) chỉ là 1 đơn vị hạch toán phụ thuộc, giám đốc trung tâm hoàn toàn không có quyền hạn ký kết hợp đồng, tất cả các khoản chi phí đều phải do kế toán trưởng và tổng giám đốc duyệt chi. Tất cả các hợp đồng thuê xe, hóa đơn thanh toán, chứng từ chi đều do tổng giám đốc và kế toán trưởng ký và duyệt chi. Sự việc kéo dài từ năm 2003 đến 2006 và được thực hiện thống nhất trong toàn công ty chứ không riêng gì ở Trung tâm kinh doanh 1. Tại 2 bản kết luận điều tra trước đây nêu rõ: ông Nguyễn Quốc Hùng và bà Hồ Hoàng Anh khai nhận biết rõ các khoản và từng chứng kiến trong quá trình kinh doanh chi phí của các giám đốc trung tâm kinh doanh (TTKD)là có thật, mục đích phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhưng không có chứng từ quyết toán được. Như vậy, thử hỏi các TTKD phải quyết toán vào đâu nếu tổng giám đốc và kế toán trưởng không ký Hợp đồng và chứng từ duyệt chi thuê xe? Tại văn bản số 927 ngày 10-8-2009 gởi Ông Vụ Trưởng Vụ IB, Ông Đoàn Thanh Hải tổng giám đốc và là người đại diện theo pháp luật  của Cty CP Vật tư Bưu Điện đã xác nhận: “Trong hoạt động thực tế hàng ngày của doanh nghiệp nói chung luôn phát sinh một bộ phận các chi phí có thực, phục vụ cho mục tiêu của doanh  nghiệp là mang lại hiệu quả kinh doanh nhưng không có chứng từ hợp pháp… các chi phí như vậy, trên quan điểm của người quản lý doanh nghiệp, được coi là chi phí hợp lý vì đã được sử dụng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Trong sai phạm cụ thể xảy ra với các cán bộ tại công ty chúng tôi, do hiểu biết pháp luật hạn chế, họ đã không ý thức được rằng làm sai chế độ kế toán trong việc lập khống chứng từ thanh toán vi phạm pháp luật, ngay cả khi việc làm đó chỉ để thanh toán các khoản chi có thực nằm trong định mức khoán nội bộ, phục vụ cho mục tiêu mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp và hoàn toàn không vì mục đích tư lợi”.

Kết luận giám định số 01/05/2009/KLGĐ-TCKT ngày 14-5-2009 của giám định tư pháp về KTTC đã nhận xet: “Các sai phạm tại 07 Trung tâm và 01 cửa hàng bán lẻ đều theo một quy trình giống nhau, có tính hệ thống từ trên xuống dưới kéo dài nhiều năm”. Rõ ràng, đây là chủ trương của cty thực hiện trong tất cả các đơn vị kinh doanh của cty. Với chức vụ, quyền hạn của mình, Vũ Huy Hoàng chỉ là người thừa hành, không có khả năng lợi dụng chức vụ quyền hạn, để cố ý làm trái các quy định của Nhà nước. Xin chứng minh:

– Trong số tay của nguyên Giám đốc Nguyễn Quốc Hùng ghi nhận tại các cuộc họp giao ban:

+ Trang 190: Anh Đôn: Vận dụng vận chuyển không đủ, không đảm bảo thủ tục.

Hoàng Anh: Ba năm qua đã vận dụng rất nhiều, kế toán đã cố gắng rất nhiều, nhưng phải làm sao cho hợp lý.

+ Trang 106: Vấn đề vận chuyển Cty sẽ nghiên cúu chọn lựa và ký hợp đồng nguyên tắc với 1 vài Cty vận tải với yêu cầu rẻ hơn và đảm bảo đủ chứng từ để thực hiện VAT và thuế doanh nghiệp.

– Lời khai của ông Nguyễn Quốc Hùng- nguyên giám đốc Cty:

+ Tại các BL 3946, ngày 10-6-2009, BL3980 ngày 21-3-2008 ông Nguyễn Quốc Hùng thừa nhận trong các cuộc giao ban các giám đốc TTKD có báo cáo những khó khăn trong chi phí có chi nhưng không có chứng từ để quyết toán, tôi có tiếp thu và họp bàn cùng với hội đồng quản trị (HĐQT) tìm cách tháo gở nhưng chưa tháo gở khó khăn cho các TTKD, nên xảy ra sự việc trách nhiệm đầu tiên thuộc về tôi, sau đó phòng kế toán và các giám đốc trung tâm.

+ Tại bản giải trình ngày 21-01-2009 (BL 3993) Ông Hùng xác nhận:

-> Biên bản họp HĐQT ngày 20-8-2008, anh Việt-nguyên Chủ tịch HĐQT có phát biểu: “bản thân tôi đôi lúc cũng không nghĩ chi phí là sai hoàn toàn. Cũng rất nhiều lần, đ/c Hòang, đ/c Đôn và cả đ/c Tâm cũng có nói với tôi là anh phải xem lại 1 số chi phí có cái chưa hợp lệ, tôi cũng đề nghị đ/c Tâm-Trưởng Ban kiểm soát tìm xem chỗ nào chưa hợp lý để xem trình HĐQT, nhưng chưa tìm được”.

->Trong quá trình hoạt động, các giám đốc trung tâm có phản ánh trong các cuộc họp giao ban, họp HĐQT về khó khăn trong kinh doanh, trong chi phí là có thật. Nhưng trong khi chưa xây dựng được quy định, quy chế nào khác, thì tôi luôn nhắc các giám đốc trung tâm các chi phí phải đúng, phải có chứng từ hợp lý hợp lệ mới giải quyết chi. Các khoản chi phí của các TTKD không có chứng từ theo quy dịnh tài chính của Cty thì không chấp nhận được. Nhưng qua giải trình của các giám đốc TTKD tôi tin là các trung tâm KD đã chi thật và nằm trong giới hạn chi phí khoán cho các TTKD.

+ Tại lời khai ngày 01-4-2009 (BL 3964), ông Hùng xác nhận nội dung ghi trong trang 202 sổ tay như sau:

->Các trung tâm tiếp khách phải báo lãnh đạo Cty trước khi tiếp khách.

->Các chi phí khuyến mãi, quà tặng, chúc Tết muốn chi phải được sự đồng ý của ban giám đốc Cty

– Ông Võ Đức Tâm-Nguyên Phó TGĐ Cty, tại lời khai ngày 09-6-2009 (BL 4060) đã xác nhận có trực tiếp tham gia và chứng kiến 02 buổi ký Hợp đồng nhập khẩu ủy thác và 01 buổi tổng kết hợp đồng dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, trung tâm KDXNK đã có chi tiền ăn, quà tặng tổng cộng 75.000.000 đồng nhưng không có chứng từ. Sau này tôi biết anh em vận dụng vào chi phí thuê xe hành khách. Khi được hỏi: Vậy anh có báo cáo HĐQT v/v này hay chưa? Ông Tâm đã trả lời: Tôi đã báo cáo HĐQT trong các cuộc họp đồng thời góp ý kiến  trong các cuộc họp Cty và đề nghị ông Nguyễn Quốc Hùng phải minh bạch các khoản chi phí và không thể tiếp tục vận dụng thuê xe nhưng đã không được HĐQT và tổng giám đốc quan tâm.

– Quy định v/v thực hiện công tác vận chuyển nội bộ Cty số 767/QĐ-TCHC ngày 23-4-2001 và số 1800B/QĐ-TH ngày 31-5-2004, quy định rõ :

+ Tất cả các đơn vị khi có nhu cầu vận chuyển đưa đón CBCNV, khách hàng đều phải có giấy đề nghị xin xe trình lãnh đạo Cty phê duyệt, chuyển Phòng TCHC (Phòng TH) thực hiện. Trường hợp không đủ phương tiện thì Phòng TCHC (Phòng TH) phải xác nhận lý do trên giấy xin xe để đơn vị tự giải quyết.

+ Phòng TC-KTTK chủ trì phối hợp phòng TCHC hướng dẫn công tác hạch toán chi phí và xuất hóa đơn vận chuyển theo quy định Nhà nước và quy chế tài chính của Cty.

Thực tế, từ năm 2003 đến giữa năm 2005 việc thuê xe được thực hiện như sau :

+ Giám đốc TTKD có văn bản đề nghị thuê xe đi công tác hàng tháng theo hợp đồng với các đơn vị có chức năng kinh doanh dịch vụ này.

+ Giám đốc Cty ký hợp đồng thuê xe du lịch khoán trọn gói hàng tháng. Nội dung hợp đồng quy định rõ: trách nhiệm bên cho thuê cung cấp hóa đơn VAT; trách nhiệm bên thuê xe thanh toán 100% tiền mặt sau 3 tháng hoặc 6 tháng hoặc trọn gói đến hết ngày 31-12.

+ Căn cứ hóa đơn nói trên HTX Quyết Tâm xuất hóa đơn VAT sau mỗi 3 tháng.

+ Lập phiếu thu tiền, CB TTKD1 ký người nộp tiền.

+ TTKD lập giấy đề nghị thanh toán có chữ ký người đề xuất, GĐ TTKD, KTT Cty, giám đốc Cty.

+ Cty ra phiếu chi tiền. Trên phiếu chi người ký nhận tiền là n/v TTKD nhưng địa chỉ lại là HTX VT Quyết Tâm, có KTT Cty, giám đốc Cty ký.

 Thời gian từ giữa năm 2005 đến 2006, quy trình cũng giống như trên, chỉ có thay đổi:

-> Hợp đồng thuê xe tính theo ngày, thanh toán 100% bằng tiền mặt sau khi 2 bên có bản phụ lục thống nhất số chuyến và tiền thuê hàng tháng.

-> Giấy xin xe từng chuyến có TGĐ duyệt và phòng tổng hợp xác nhận không có xe để cấp.

Rõ ràng, quy trình thực hiện trong thực tế do tổng giám đốc phê duyệt và Phòng KTTK thanh toán hoàn toàn khác quy định do chính TGĐ ban hành. Hồ sơ chứng từ thanh tóan tại 7 Trung tâm KD đều giống nhau, mặc dù không đúng quy định đã ban hành, thậm chí người ký nhận tiền trên phiếu chi là n/v TTKD nhưng lại ghi HTX VT Quyết Tâm hoặc Cty TNHH Lê Trần Thương, vẫn được kế toán trưởng và tổng giám đốc duyệt chi, chứng minh đã có sự chấp thuận trước của tổng giám đốc và sự hướng dẫn thống nhất về chứng từ của phòng TC-KTTK. Hoàn toàn phù hợp nội dung ghi trong sổ tay và lời khai của ông  Nguyễn Quốc Hùng, lời khai của các giám đốc TTKD như đã viện dẫn, khẳng định các giám đốc TTKD nói chung và Vũ Huy Hòang nói riêng chỉ là người thực hiện theo chủ trương chung của HĐQT và ban TGĐ Cty. Đơn báo cáo gửi C37 ngày 09-8-2007 (BL 380) chính Vũ Huy Hoàng đã báo rõ: chủ trương cho phép vận dụng chi phí thuê để thuê xe phục vụ kinh doanh một cách không đúng quy định là một trong những vấn đề cần chấn chỉnh và đã được tôi (Hoàng)-anh Tâm (Bí thư Đảng ủy), anh Đôn (Trưởng ban kiểm soát) đấu tranh nhiều lần trong các cuộc họp giao ban, họp Đảng ủy, họp Công đoàn, họp HĐQT mở rộng. Điều này cũng đã được nguyên TGĐ Nguyễn Quốc Hùng xác nhận tại Bản giải trình ngày 21-01-2009 (BL3993) chúng tôi đã trình bày ở phần trên. Ngoài ra, tại thư tố cáo ngày 11-8-2007 (BL 381), ông Đoàn Minh Đôn- nguyên trưởng ban kiểm soát- giám đốc TTKD 2 đã xác nhận: chủ trương của TGĐ và kế toán trưởng cho phép các đơn vị kinh doanh trực thuộc đựơc phép thuê xe đi công tác để phục vụ kinh doanh với các chứng từ hợp lý hợp lệ. Trung tâm 2 sau 2 năm 2003-2004 thực hiện chủ trương chung của TGĐ, tôi đã chủ động chấm dứt từ 2005 đến nay.

Rõ ràng, xét cho đến cùng, bản chất hành vi sai phạm của Vũ Huy Hoàng cũng như giám đốc các TTKD khác không phải họ đã lợi dụng chức vụ quyền hạn cố ý làm trái, mà thực chất trong hoàn cảnh họ không thể không thực hiện chủ trương của lãnh đạo Cty, với nhận thức chỉ là thủ tục để hợp thức hóa chi phí có thật trong định mức khoán cho phép vì lợi ích của Cty. Chúng tôi nghĩ cho dù ai ở vào cương vị của các giám đốc TTKD thời điểm đó cũng không thể làm khác hơn!

II/-Về hậu quả thiệt hại

Tại văn bản số  927 ngày 10-8-2009 gởi Ông Vụ trưởng Vụ IB, tổng giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Potmasco đã xác định: Các chi phí này là có thực và phục vụ cho mục tiêu hoạt động SXKD của Công ty nhằm mang lại doanh thu, lợi nhuận cho toàn thể cổ đông, trong đó có cổ đông Nhà nước, tập đoàn BCVTVN (VNPT), các chi phí này đều được đánh giá là hợp lý và thực chất không gây thiệt hại cho công ty. Kết luận điều tra bổ sung số 02/C37(P8) ngày 21-3-2010 cũng đã xác nhận: Các khoản chi phí này là thực tế nhưng không có chứng từ quyết toán, không chiếm đoạt cá nhân.

Hàng năm công ty đều giao các chỉ tiêu kế hoạch cho trung tâm gồm: Doanh thu, lãi gộp và định mức khoán chi phí trên lãi gộp. Đây là các chỉ tiêu bắt buộc. Căn cứ “Bảng tổng hợp tình hình thực hiện chi phí của TTKD1 từ năm 2003-2006” đã được nguyên Tổng Giám đốc Nguyễn Quốc Hùng, nguyên Kế toán trưởng Hồ Hoàng Anh và Tổng Giám đốc Đoàn Thanh Hải ký xác nhận, thì TTKD1 đã tiết kiệm được chi phí so định mức là 720.991.554đ  và lãi gộp thực hiện là 15.932.499.247đ .

Dấu hiệu bắt buộc của tội cố ý làm trái… là gây hậu quả nghiêm trọng. Các khoản chi phí này là có thực, phục vụ cho hoạt động SXKD của Cty, nằm trong định mức khoán cho phép chẳng những không gây thiệt hại cho Cty mà còn tiết kiệm 720.991.554 đồng và mang lợi nhuận về cho Cty 15.932.499.247đồng.

Cáo trạng truy tố Vũ Huy Hoàng về tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo khoản 2 Điều 165 Bộ Luật Hình sự với quy kết  đã gây thiệt hại cho Công ty cổ phần Vật tư Bưu điện số tiền là 596.634.000đ.

Sau khi có kết luận điều tra bổ sung, Vũ Huy Hoàng đã có Bản giải trình chi phí và cung cấp thêm các giấy xác nhận các khoản chi phí sau đây:

– Chi trả cho bà Phạm Thu Lan, chủ cơ sở cho thuê xe du lịch Hoa Lan, số 17 đường 3/2 Quận 10, chi phí thuê xe đi công tác trong thời gian 2003-2006, số tiền 19.000.000đ.

– Chi cho anh Trần Công Chất, nhân viên TTKD1, chi phí mua quà chăm sóc khách hàng  trong các ngày lễ và tết cổ truyền, số tiền 49.750.000đ.

– Chi cho anh Đỗ Đức Hiếu, nhân viên TTKD1, chi phí mua quà chăm sóc khoảng thời gian đầu năm 2005, số tiền là 45.000.000đ.

Tổng cộng 3 khoản chi trên là 113.750.000đ. Các khoản chi phí này chưa được cáo trạng ghi nhận khấu trừ. Như vậy, số tiền mà Vũ Huy Hoàng đã chi vào các hoạt động của TTKD1 như: Tiếp khách, thuê phòng trọ, hiếu, hỷ… không có chứng từ chứng minh, chỉ còn lại 482.884.000đ (= 596.634.000đ – 113.750.000đ).

Số tiền này, như trên đã chứng minh, kết luận điều tra, cáo trạng và công ty đều xác nhận là chi phí thực tế cần thiết cho họat động sản xuất kinh doanh của Cty và TTKD1, nằm trong định mức khoán cho phép được Cty chấp nhận, không gây thiệt hại cho Cty, mà còn tiết kiệm dược 720.991.554đ so với định mức khóan chi phí của Công ty. Việc sử dụng các chi phí này phục vụ SXKD của TTKD1, do Vũ Huy Hoàng làm giám đốc trong các năm từ 2003-2006, đã đem về cho Cty doanh thu 140.100.972.114 đồng và làm lợi cho Cty 15.932.499.247đ (lãi gộp)! Không gây thiệt hại 482.884.000đ mà còn tiết kiệm được 720.991.554đ chi phí và đem lợi về Cty trên 15 tỷ đồng lãi gộp, lẽ nào là hành vi phạm tội!?

Cáo trạng cho rằng Vũ Huy Hoàng đã vi phạm Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Nghị định 129/2004/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Kế toán áp dụng trong họat động kinh doanh. Về việc này, chúng tôi xin có ý kiến như sau:

1/- Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 quy định:

– Không tính vào chi phí hợp lý các khoản sau: Các khoản chi không có hóa đơn chứng từ, hoặc hóa đơn chứng từ không hợp pháp (khoản 3 Điều 6).

– Quá trình kiểm tra, thanh tra kê khai quyết toán thuế nếu phát hiện thu nhập chịu thuế và các yếu tố khác do cơ sở kinh doanh xác định không hợp lý, cơ quan thuế có quyền xác định lại thu nhập chịu thuế và các yếu tố khác để đảm bảo thu đủ, thu đúng thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 30).

– Cơ sở vi phạm Luật thuế TNDN thì tùy mức độ cơ quan thuế xử lý vi phạm hành chính về Luật thuế (Điều 31-49).

2/- Nghị định 129/2004/NĐ-CP quy định:

Đơn vị kế toán phải sử dụng hóa đơn bán hàng theo đúng quy định; không được mua, bán tráo đổi, cho hóa đơn hoặc sử dụng hoá đơn của tổ chức, cá nhân khác, không được sử dụng hóa đơn để kê khai trốn lậu thuế (khỏan 4 Điều 10).

3/- Nghị định 185/2004/NĐ-CP ngày 04-11-2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán quy định:

– Hành vi vi phạm lĩnh vực kế tóan dẫn đến trốn, lậu thuế còn bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế (điều 17).

– Vi phạm quy định về chứng từ kế toán: Giả mạo, khai man chứng từ kế toán, thỏa thuận người khác giả mạo khai man chứng từ kế toán, bị xử phạt từ 5.000.000đ đến 20.000.000đ. (điểm a-b khỏan 3 điều 7).

4/- Nghị định 100/2004/NĐ-CP ngày 25-02-2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, quy định:

– Phạt tiền từ 3-5 lần số trốn thuế đối với hành vi sử dụng hóa đơn khống, chứng từ kế toán khống nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp (điểm a khoản 3 Điều 11).

Công ty CP Vật tư Bưu điện được cổ phần hóa từ Doanh nghiệp Nhà nước (Cty Vật tư Bưu điện 2). Tổng Giám đốc là đại diện theo pháp luật của Công ty và Kế toán trưởng mới có thẩm quyền ký, đăng ký kê khai, báo cáo và quyết tóan thuế. Hành vi của Vũ Huy Hoàng thỏa thuận với các đơn vị vận tải, ký khống hợp đồng vận chuyển và xuất hóa đơn để hợp thức hóa các khỏan chi phí thực tế nhưng không có chứng từ là thực hiện chủ trương của công ty. Từ phó tổng giám đốc, Trưởng Ban Kiểm sóat, thành viên HĐQT, Chủ tịch Công đoàn đến toàn thể CBNV 7 Trung tâm đều thực hiện một qui trình giống nhau. Do đó, nếu có vi phạm Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 và Nghị định 129/2004/NĐ-CP của Chính phủ thì chỉ có công ty vi phạm và cũng chỉ làm lợi cho công ty, mà người chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế là tổng giám đốc và kế toán trưởng. Căn cứ các quy định viện dẫn trên thì công ty cũng chỉ bị xử lý: Xuất toán các khoản chi phí đã hợp thức hóa bằng chứng từ khống, truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp và phạt tiền đối với số thuế bị truy nộp theo Nghị định 100/2004/NĐ-CP, và xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực kế toán theo Nghị định 185/2004/NĐ-CP của Chính phủ.

Tại kết luận giám định số 01/05/2009/KLGĐ-TCKT ngày 14-5-2009, giám định viên tư pháp về KTTC đã nhận xét: “Trách nhiệm chính thuộc về các TTKD và cửa hàng bán lẻ chủ yếu để lấy hóa đơn đỏ VAT (vì đây là hóa đơn thật do các đơn vị kinh doanh vận tải mua tại cơ quan thuế) làm cơ sở chứng từ gốc hợp pháp (nhưng không hợp lệ) để lập phiếu chi thanh toán cho các khỏan phí của đơn vị nhưng không có chứng từ chứng minh là việc làm sai nguyên tắc, các khỏan chi này không được tính chi phí hợp lý, hợp lệ, làm tăng chi phí (không hợp lý, hợp lệ) giảm phần thu nhập chịu thuế của Cty, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước”. Với nhận xét này, thì rõ ràng việc xử lí bằng biện pháp hành chính trong lĩnh vực kế tóan và thuế theo quy định tại Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04-11-2004 và số 100/2004/NĐ-CP ngày 25-02-2004 như chúng tôi đã phân tích trên là hòan tòan phù hợp. Đến nay, cơ quan thuế cũng chưa có kết luận về việc xử phạt này, nên cũng chưa có căn cứ xác định thất thu bao nhiêu tiền thuế cho ngân sách Nhà nước. Kết luận giám định cho rằng các giám đốc TTKD và cửa hàng bán lẻ đã gây thiệt hại cho Cty CP-VT Bưu điện từ năm 2003-2007 số tiền 4.751.967.474 đồng và buộc các đối tượng nộp lại số tiền nêu trên, kết luận này mâu thuẫn với chính nhận xét nêu trên của kết luận giám định, mâu thuẫn chính ý kiến xác nhận của ông Đòan Thanh Hải-Tổng Giám đốc Cty. Khoản 2 Điều 42 Bộ Luật Hình sự quy định người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đọat cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải bồi thường thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Trong khi kết luận điều tra, cáo trạng, Cty và kết luận giám định đều xác nhận số tiền các giám đốc TTKD dùng chứng từ hợp pháp để hợp thức hóa là chi phí có thật trong định mức khóan phục vụ cho họat động kinh doanh mang lại hiệu quả cho Cty thì tại sao lại buộc các đương sự phải nộp lại cho Cty?

III/-Kiến nghị

Trong vụ án này, sai phạm của giám đốc 7 TTKD và một cửa hàng bán lẻ đều theo một quy trình giống  nhau, thống nhất từ trên xuống dưới, thực hiện chủ trương chung của Cty nhằm mục đích phục vụ SXKD, không ai chiếm đoạt cá nhân, chẳng những không gây thiệt hại cho Cty mà còn làm lợi cho Cty:

– Doanh thu tăng từ 250 tỷ (2003) lên 328 tỷ (năm 2006). Năm 2008 (xảy ra vụ án) giảm xuống 50,6 tỷ đồng.

– Lãi gộp tăng từ 35tỷ lên 50tỷ (2008 giảm còn 18 tỷ đồng)

– Nguồn vốn chủ sở hữu tăng từ 18 tỷ lên gần 50 tỷ.

– Đặc biệt nghĩa vụ ngân sách đối với Nhà nước thực hiện bình quân lên 70 tỷ đồng, năm 2007 lên đến 137 tỷ đồng. Năm 2008 xảy ra vụ án giảm xuống còn 33 tỷ đồng.

Trong vụ án này, một số giám đốc TTKD chỉ bị đề nghị xử lý hành chính hoặc đã được đình chỉ vụ án và miễn trách nhiệm hình sự.

Chúng tôi hoàn toàn nhất trí và hoan nghênh việc xử lý như vậy là hết sức thấu tình đạt lý của cơ quan điều tra và VKSNDTC đối với các vị giám đốc này. Tuy nhiên, chúng tôi lại cảm thấy xót xa cho Vũ Huy Hoàng phải ra đứng trước vành móng ngựa hôm nay! Bởi lẽ Vũ Huy Hoàng cũng hội đủ các tình tiết (thậm chí còn nhiều hơn nữa) mà  các giám đốc không bị xử lý hình sự được hưởng:

– Số tiền thiệt hại quy kết cho Vũ Huy Hoàng ít hơn và cũng đã  được Hoàng nộp gần đủ theo yêu cầu cơ quan điều tra.

-Vũ Huy Hoàng là người đã nhiều lần có ý kiến v/v làm không hợp lệ trong các cuộc họp Cty. Hoàng cũng là người đã có đơn báo cáo sự việc với cơ quan điều tra (09/8/2007) trước cả đơn tố cáo của Đoàn Minh Đôn (11/8/2007).

– Về nhân thân, bản thân Vũ Huy Hoàng tham gia kháng chiến từ năm 16 tuổi, đã được tặng thưởng Huân chương  Giải phóng Hạng Nhì-Ba, Huy chương kháng chiến Hạng Nhất, Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng, danh hiệu chiến sĩ thi đua và nhiều bằng khen vì có nhiều thành tích trong họat động SXKD của Cty.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tuyên xử:

– Tuyên bố Vũ Huy Hòang không phạm tội.

– Trả lại số tiền 310 triệu đồng Vũ Huy Hoàng đã nộp.

– Hủy bỏ lệnh kê biên tài sản số 05/KB-C37 (P8) ngày 19-6-2008 của cơ quan CSĐT-Bộ Công An đối với căn nhà số 270/40 Lý Thường Kiệt P. 14 Q. 10 Tp. HCM của vợ chồng Vũ Huy Hoàng.

Chúng tôi tin tưởng rằng sau khi nghị án Hội đồng xét xử sẽ đưa ra một phán quyết hết sức công minh, thấu tình đạt lý và đem lại sự công bằng cho Vũ Huy Hòang cũng như tất cả những người có liên quan trong vụ án.

Trân trọng cảm ơn HĐXX.

NGƯỜI BÀO CHỮA

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Mức phạt nồng độ cồn trong máu và trong khí thở

Nồng độ cồn (BAC) là lượng cồn trong máu của một người. Nó được đo bằng miligam cồn trên 100 mililít máu (mg/dL). BAC có thể được đo bằng cách sử dụng nhiều loại phương pháp khác nhau, bao gồm: Hơi thở: Đây là phương pháp phổ biến nhất để đo

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!