“Oan sai” là khái niệm không mới với hoạt động tố tụng. “Bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai” cũng là thuật ngữ quen thuộc trong nhà nước pháp quyền, biểu hiện của công bằng xã hội, cơ sở bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Hiện nay, bồi thường oan sai không phải là sự áp đặt hoặc sao chép máy móc tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác mà phải được thực hiện theo thông lệ hay trên cơ sở những định chế toàn diện – hệ thống, vừa đầy đủ nguyên tắc của việc bồi thường, vừa đảm bảo tuân theo một trình tự thủ tục chặt chẽ nhất định.

1. Oan, sai và quyền được bồi thường oan sai trong tố tụng

Theo Từ điển tiếng Việt, “oan” là “bị qui cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu”. Còn “sai” được hiểu là “không đúng, không phù hợp với lẽ phải”1. Trong tố tụng hình sự, một người được coi là “oan” khi bản thân họ không phạm tội nhưng các cơ quan tư pháp xác định họ phạm tội và thực hiện các biện pháp tố tụng gây tổn hại về mặt vật chất, tinh thần với họ. Còn “sai” trong tố tụng thường thể hiện qua nhiều cấp độ. Người được coi là bị truy tố xét xử sai khi cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án thiếu khách quan mà hậu quả cuối cùng là người bị truy tố xét xử sai phải gánh chịu những tổn hại nhất định. Việc tiên lượng đánh giá bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra vì vậy cần có sự cân nhắc. Tuy nhiên, điều ai cũng biết là oan, sai không phải là hiện tượng cá biệt. Mọi quốc gia, mọi nơi trên thế giới này, đâu cũng có oan, sai – cho dù nền tư pháp của một nước yếu kém hay phát triển. Bởi theo như đánh giá của giới chuyên môn thì “không một thiết chế nào của con người có thể miễn dịch hoàn toàn với sai lầm. Vì rằng sai lầm nằm trong bản tính con người” 2.

Thật vậy, cho dù câu nói “Thế gian chẳng ít thì nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai” của người xưa vẫn còn đó với ngụ ý vẻ như ở đời thật khó có chỗ cho hai chữ “oan, sai”. Thế nhưng“oan, sai” vẫn song hành trên “con đường tố tụng”. Và để bù đắp thiệt hại oan, sai, Điều 9 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền, khoản 6 Điều 14 Công ước Dân sự chính trị nêu rõ: “Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ và giam cầm trái phép có quyền được Chính phủ bồi thường thiệt hại”. Xuất phát từ cơ sở kinh tế, đặc điểm xã hội và từ những cách tiếp cận khác nhau, nhiều quốc gia cũng đưa ra các thể chế bảo vệ quyền được bồi thường phát sinh trong hoạt động tố tụng. Ở một số nước theo hệ thống thông luật như Anh, Mỹ, dù việc bồi thường oan, sai không được pháp điển hoá bằng văn bản cụ thể song vẫn được thực hiện trên cơ sở án lệ hay từ cam kết của cơ quan có thẩm quyền (Ví dụ: căn cứ vào cam kết của Bộ trưởng Bộ nội vụ trước Hạ viện Anh từ năm 1985, người bị giam giữ oan, sai ở Anh hiện vẫn có thể kiện đòi bồi thường). Mới đây, tháng 5/2005, báo VnExpress lại đưa tin một công dân Trung Quốc vừa đệ đơn đòi cơ quan chức năng phải chính thức xin lỗi và bồi thường cho 11 năm ngồi tù của mình. Theo luật định, người từng chịu oan ức này có thể được khôi phục tinh thần và được bù đắp vật chất khoảng 256.000 NDT. Tại Nhật Bản, bồi thường thiệt hại do oan, sai được xét trên cả hai yếu tố: vật chất lẫn tinh thần. Tòa án khi quyết định mức bồi thường phải “xem xét tính chất và thời gian người được bồi thường thiệt hại bị giam giữ; những thiệt hại về tài sản, về lợi ích kinh tế; những tổn thương về thể chất và tinh thần” (khoản 4 Điều 4 Luật Bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự Nhật Bản).

Cách đây gần 6 thế kỷ, nguyên tắc điều tra xét xử tránh gây oan, sai đã được quy định trong pháp luật nước ta. Điều 667 Bộ luật Hồng Đức nêu rõ: “Khi lấy khẩu cung người phạm tội, quan tra án phải xem xét kỹ tìm ra sự thật, để cho kẻ phạm phải nhận tội, không được hỏi quá rộng đến cả người ngoài để tìm chứng cứ bậy”. Còn “quan xét án… tìm việc khác để buộc tội người thì xử là cố ý bắt tội người” (Điều 670). Cũng theo Bộ luật Hồng Đức, “Những quan ty làm việc có điều lầm lỗi, sự tình đã rõ ràng mà không chịu phục tình tạ lỗi, lại còn dối trá che đậy, xét tội nhẹ thì thì xử biếm hay tội đồ, nặng thì xử lưu” (Điều 237). Kế thừa và phát huy tư tưởng văn minh đó, pháp luật hiện đại tiếp tục xây dựng những nguyên tắc tiến bộ nhằm bảo đảm quyền được bồi thường do hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra. Điều 72 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Người bị bắt, bị giam giữ, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự”. Trong tố tụng hình sự, quyền được bồi thường cho người bị truy tố, xét xử oan cũng được ghi nhận bằng nguyên tắc độc lập. Theo đó, “người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi” (Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự). Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng nêu rõ: cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và có quyền yêu cầu người đã gây thiệt hại hoàn trả khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường.Đặc biệt, Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17/03/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (gọi tắt là Nghị quyết 388) và Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/03/2004 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn thi hành một số qui định của Nghị quyết 388 (gọi tắt là Thông tư 01) ra đời đánh dấu thêm bước tiến mới trong lý luận bồi thường thiệt hại. Đối tượng được bồi thường, tiêu chí xác định thiệt hại và mức bồi thường, kinh phí, cơ quan có trách nhiệm bồi thường và đặc biệt là nguyên tắc và trình tự thủ tục bồi thường được qui định cụ thể theo hướng bảo đảm quyền con người, thể hiện ngày một đầy đủ trách nhiệm của Nhà nước trước công dân.

2. Nguyên tắc, thủ tục bồi thường thiệt hại

2.1 Nguyên tắc bồi thường

Nghiên cứu án lệ và văn bản pháp luật các nước có thể thấy giới hạn thiệt hại bồi thường do hoạt động tố tụng gây ra đa phần được xác định gồm cả vật chất lẫn tinh thần. Gần đây, do tính bất hợp lý của nguyên tắc “miễn trừ quốc gia” – nguyên tắc có nội dung xác định nhà nước không phải là bị đơn trong vụ kiện yêu cầu bồi thường do hành vi của nhân viên mình gây ra khi thi hành công vụ – ngày càng ít được vận dụng. Thay vào đó, “Thuyết trách nhiệm đại diện” được nhiều nước lưu tâm. Theo đó nhân viên nhà nước khi thực hiện chức phận của mình mà gây tổn hại thì phải chịu trách nhiệm bồi hoàn. Tuy nhiên, nhà nước được coi là chủ thể “đại diện” đứng ra chi trả bồi thường sau đó yêu cầu người trực tiếp gây tổn hại hoàn trả. Mục đích của qui định này nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền, nâng cao trách nhiệm, phát huy tính tích cực chủ động của cá nhân đồng thời bảo đảm cho việc giải quyết bồi thường kịp thời, nhanh chóng.

Ở nước ta, bồi thường thiệt hại cho người bị oan cũng xuất phát từ nguyên tắc và ý nghĩa đó. Theo Điều 3 Nghị quyết 388 và khoản 1 mục 3 Thông tư liên tịch 01 thì bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra phải đảm bảo các tiêu chí :

– Kịp thời, công khai, đúng pháp luật;

– Tạo điều kiện thuận lợi để người bị oan, thân nhân người bị oan hoặc đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền được bồi thường của mình;

– Việc bồi thường trước hết phải được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người bị oan, thân nhân người bị oan hoặc đại diện hợp pháp của họ. Khi thương lượng không thành, người bị oan có quyền khởi kiện ra tòa để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự;

– Cơ quan tố tụng nào gây oan thì cơ quan đó có trách nhiệm chủ động giải quyết bồi thường. Kinh phí bồi thường trích từ ngân sách nhà nước và người trực tiếp gây thiệt hại phải có nghĩa vụ hoàn trả;

– Bảo đảm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo luật định, bao gồm cả thiệt hại vật chất lẫn thiệt hại tinh thần. Về tinh thần, người bị oan được khôi phục danh dự, được xin lỗi cải chính công khai. Khi nhân thân bị xâm hại như tự do bị hạn chế, sức khỏe bị tổn hại thì được bồi thường bằng tiền theo mức lương tối thiểu (1 ngày tù bằng 3 ngày lương; người bị oan chết: người thân của họ được bồi thường 360 tháng lương; oan khác: 1 ngày oan bằng 1 ngày lương). Với thiệt hại vật chất thì xác định theo từng trường hợp như khi người bị oan chết, khi người bị oan bị tổn hại sức khỏe, khi tài sản người bị oan bị xâm hại hoặc khi thu nhập thực tế của họ bị mất.

2.2 Trình tự, thủ tục bồi thường

Mỗi một quốc gia trên thế giới có một cách giải quyết bồi thường oan, sai song đa phần trình tự thủ tục bồi thường được xác định theo hướng giản đơn, thời hiệu ngắn. Luật pháp Đức qui định trong thời hạn 6 tháng khi có quyết định hoặc bản án của Tòa, người bị hại có quyền gửi đơn đến Bộ Xã hội yêu cầu giải quyết bồi thường. Và để bảo đảm công bằng, khách quan, luật pháp nhiều nước trao thẩm quyền giải quyết bồi thường do hoạt động tố tụng gây ra cho một cơ quan độc lập.

Ở Bỉ và Tây Ban Nha, cơ quan giải quyết bồi thường thuộc về Bộ tư pháp. Tại Pháp, vấn đề này được tiến hành theo trình tự đặc biệt và thuộc thẩm quyền của Phòng hình sự Tòa phá án. Riêng tại Thụy Điển, Văn phòng bồi thường thiệt hại với gần 10 luật sư, một số cán bộ quản lý và cán bộ giúp việc được thành lập để thực hiện chuyên trách của mình3.

Ở nước ta, cùng với Hiến pháp, các Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự cũng như các văn bản pháp luật hiện hành đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản xác định trình tự thủ tục khôi phục danh dự và thủ tục bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra. Phương thức, kinh phí bồi thường, cơ quan giải quyết bồi thường cũng được qui định cụ thể. Nghị định 47/CP ngày 03/05/1997 quy định rõ khi người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu, trong thời hạn 15 ngày, thủ trưởng có thẩm quyền lập Hội đồng xem xét đánh giá và kiến nghị mức bồi thường gửi Thủ trưởng cơ quan tố tụng quyết định. Việc giải quyết bồi thường phải được tiến hành trong thời hạn 45 ngày kể từ khi nhận được đơn yêu cầu. Điều 14, 15, 16 Nghị định cũng nêu rõ người tiến hành tố tụng gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả phí bồi thường cho Nhà nước kể từ ngày có quyết định hoàn trả hoặc trừ dần vào lương với mức không quá 30% và không dưới 10% tổng thu nhập lương và phụ cấp hàng tháng.

Kể từ khi có Nghị quyết 388 và Thông tư liên tịch 01 hướng dẫn thi hành đến nay, trình tự thủ tục giải quyết bồi thường cho người bị oan từng bước được đơn giản hoá, nhiều vụ việc được giải quyết kịp thời, giảm phiền hà cho dân. Theo qui định hiện hành thì kể từ ngày nhận được bản án hoặc quyết định có hiệu lực xác định một người bị oan, trong thời một tháng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành xin lỗi và cải chính công khai trên báo chí (3 số liên tiếp, trừ trường hợp người bị oan yêu cầu không đăng báo, khoản 1 mục V Thông tư 01). Việc bồi thường thiệt hại vật chất trước hết phải được thông qua thương lượng giữa các bên. Và để được bồi thường, người bị oan phải làm đơn yêu cầu, phải trình “các chứng từ hợp lệ về các chi phí hợp lệ, về thu nhập” để cơ quan tố tụng lấy đó làm cơ sở giải quyết bồi thường.

3. Vướng mắc trong quá trình áp dụng và hướng tháo gỡ

Không thể phủ nhận ý nghĩa tích cực và sự chuyển biến khả quan của việc áp dụng các nguyên tắc, thủ tục bồi thường cho người bị oan trong thực tiễn. Những lời xin lỗi đã đến với dân, những giá trị vật chất được đền bù… bù đắp phần nào những tổn thất mà nhiều người bao năm gánh chịu.

Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng là lý luận cũng như thực tiễn bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra đã đang bộc lộ nhiều bất cập. Từ khi có Nghị quyết 388 về bồi thường cho người bị oan và Thông tư 01 hướng dẫn thi hành đến nay, việc giải quyết bồi hoàn chủ yếu mới dừng ở việc công khai xin lỗi khôi phục danh dự, còn bồi thường vật chất vẫn gặp nhiều khó khăn. Thương thuyết bồi thường hiện còn nhiều trở lực. Chất lượng, tốc độ bồi thường hạn chế. Báo cáo của ngành tư pháp tại phiên họp thứ 6 Quốc hội khóa XI cho thấy chỉ riêng năm 2004, Công an đã đình chỉ điều tra 950 vụ với 1.262 bị can (có 125 bị can không phạm tội). Cơ quan công tố đình chỉ điều tra 665 vụ với 1.394 bị can (có 108 bị can không phạm tội). Riêng ngành Tòa án từ 01/10/2003 đến 31/8/2004 đã có tới 8.500 bản án hoặc quyết định bị sửa, hơn 2.000 bản án, quyết định bị huỷ. Song điều nghịch lý là tính đến cuối năm 2004, Tòa án các cấp mới nhận được 28 đơn yêu cầu bồi thường, hòa giải thành 9 trường hợp, bồi thường 631 triệu đồng. Còn với Viện kiểm sát, trả lời phỏng vấn báo giới nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập ngành mới đây, Viện trưởng Viện KSNDTC Hà Mạnh Trí cho biết tính đến nay (cuối tháng 7/2005), Viện kiểm sát các cấp mới nhận 53 đơn yêu cầu bồi thường, xử lý dứt điểm được 33 trường hợp. Rõ ràng là với thực trạng oan, sai chưa có điểm dừng như hiện nay thì những con số trên cho thấy việc khôi phục thiệt thòi cho người bị oan mới đạt ở mức rất khiêm tốn. Đó là chưa kể có không ít trường hợp bị truy tố xét xử sai không được bồi thường vì vấn đề chưa được dự liệu bằng qui phạm cụ thể. Nhiều vụ tiếp tục kéo dài do thương lượng bất thành và các bên lại phải tốn thêm thời gian sức lực cho vụ kiện .

Vậy đâu là nguyên nhân của thực trạng? Câu giải đáp trước tiên nằm ở khâu lý luận bồi thường oan, sai. Điều dễ nhận thấy là hiện nay, qui định về nguyên tắc và trình tự thủ tục bồi thường chưa giải quyết hết các đặc thù từng trường hợp oan, sai. Đến nay, Nghị quyết 388 chỉ mới là cơ sở để giải quyết các trường hợp oan, còn những đối tượng bị truy tố xét xử sai hiện vẫn còn “bỏ ngõ”, chưa có văn bản nào cụ thể hóa. Hay như nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả được đặt ra từ lâu nhưng chưa thấy Thông tư 01 hướng dẫn thực hiện. Các chi phí thực tế bồi thường cho người bị oan chưa bao quát, chưa dự liệu đầy đủ (ví dụ phí thăm nuôi người bị oan trong thời gian họ bị tạm giam, tạm giữ; phí thuê luật sư bảo vệ quyền lợi…) gây thiệt thòi cho người bị oan. Bên cạnh đó, tính khách quan trong quá trình bồi thường chưa được đảm bảo do cơ quan giải quyết lại chính là một “mắt xích” trong hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng. Lại có tình trạng cán bộ, cơ quan tố tụng do lo lắng phải bồi thường nên không thẳng thắn thừa nhận sửa sai, cứng nhắc khi thực hiện bồi thường. Sự thiếu hụt nhân lực cũng như sự hạn chế về chất cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xử lý vụ việc5… Tất cả tạo trở lực cho ngành tư pháp và đặt ra những vấn đề nan giải cho việc bồi thường oan, sai.

Trong điều kiện hiện nay, để hoàn thiện chế định bồi thường, nhất là nguyên tắc thủ tục bồi thường oan, sai cả về lý luận cũng như thực tiễn, thiết nghĩ cần làm tốt các nội dung sau:

– Về nghĩa vụ hoàn trả: Bổ sung và qui định rõ theo hướng cán bộ trực tiếp gây oan, sai sẽ bị xử lý hành chính, hình sự và phải có nghĩa vụ bồi hoàn công quĩ cho Nhà nước tùy tính chất, mức độ sai phạm. Thực ra nguyên tắc này được quy định tại chương 2 Nghị định 47/CP và tại mục 5, Điều 16, 17 Nghị quyết 388. Tuy nhiên vấn đề này chưa được Thông tư 01 hướng dẫn thực hiện đề cập tới. Và trên thực tế, trách nhiệm bồi hoàn hiện vẫn bộc lộ nhiều trì trệ, nếu không nói là nhiều nơi còn buông lỏng. Xác định rạch ròi trách nhiệm bồi hoàn toàn bộ hoặc một phần tài sản và các trách nhiệm khác nếu cótùy thuộc vào mức độ lỗi của người trực tiếp gây tổn hại vừa có ý nghĩa đề cao trách nhiệm cá nhân, vừa góp phần ngăn ngừa oan, sai trong tố tụng.

– Về cơ quan giải quyết bồi thường: Xúc tiến thành lập cơ quan chuyên môn giải quyết bồi thường thiệt hại. Kinh nghiệm một số nước như Thụy Điển, Bỉ, Tây Ban Nha cho thấy việc thương thuyết bồi thường do hoạt động tố tụng gây ra thường do một cơ quan chuyên môn đảm trách. Các cơ quan này vừa quản lý nguồn quỹ bồi thường oan, sai lại vừa có trách nhiệm giải quyết bồi thường xảy ra trong thực tế. Ở nước ta, việc giao cho cơ quan đã gây oan, sai đứng ra thương thuyết bồi thường, trao thẩm quyền giải quyết khiếu kiện bồi thường cho Tòa án như hiện nay – thiết nghĩ – sẽ làm cho nguyên tắc khách quan, minh bạch trong bồi thường “lệch hướng” và phải chăng đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều vụ bồi thường thiệt hại kéo dài? Bởi vậy, như quan điểm một số nhà chuyên môn6, chúng tôi cho rằng việc lập cơ quan độc lập với các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử để giải quyết bồi thường cho người bị oan trong điều kiện hiện nay là cần thiết (Riêng cơ quan tố tụng nào gây oan, sai vẫn phải tiến hành thủ tục xin lỗi cải chính và nên chăng hình thành một quỹ bồi thường tại Bộ Tài chính, các Sở Tài chính và giao trách nhiệm thương thuyết, giải quyết bồi thường cho các bộ phận chuyên môn ở những cơ quan này?) vì đây là cơ sở bảo đảm tính công minh, vừa là tiêu chuẩn quyết định hiệu quả giải quyết vụ việc một cách khách quan, hiệu quả.

– Về chứng cứ bồi thường: Cần qui định theo hướng giản đơn, thuận tiện và thực tiễn phải được đánh giá toàn diện, khách quan, có tình có lý, tránh gây thêm thiệt thòi cho người bị hại. Nên chăng không cứng nhắc qui định “Các chứng từ hợp lệ và các khoản chi phí hợp lệ, về thu nhập của người bị oan trước khi bị tạm giam, tạm giữ hoặc chấp hành hình phạt tù” là điều kiện thủ tục “cần phải có” ( theo khoản c, mục 2, phần V Thông tư 01) trong mọi trường hợp giải quyết bồi thường vì rằng trong nhiều trường hợp, thiệt hại thực tế là có thật song do nhiều yếu tố khách quan, người bị oan đã không tìm được chứng cứ theo yêu cầu. Bởi khi đã vướng vào vòng lao lý, chẳng mấy ai còn đủ sáng suốt để biết, để có động thái thu thập, truy tìm, lưu giữ chứng cứ rồi một ngày nào đó lại đưa ra bảo vệ quyền lợi cho chính mình 7. Nên xác định chứng cứ bồi thường theo hướng trên chính là tạo cơ hội và điều kiện tốt nhất để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan trong thực tiễn.

– Đồng thời cần sớm ban hành Luật bồi thường nhà nước theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh oan, sai. Theo đó – cùng với những trường hợp bị oan – các trường hợp bị truy tố xét xử sai phải được cụ thể hóa bằng các qui phạm. Nguyên tắc, thủ tục bồi thường cũng cần được luật hóa theo hướng giản đơn, tạo thuận lợi cho người bị hại. Bổ sung những thiệt hại thực tế nhằm bảo đảm hơn nữa nguyên tắc bồi thường toàn bộ, kịp thời và nhanh chóng. Trong điều kiện hiện nay, để xây dựng đạo Luật Bồi thường có khả năng đi vào cuộc sống, cần tổng kết thực tiễn và nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới. Vì rằng kinh nghiệm cho thấy giải quyết bồi thường oan sai tại nhiều quốc gia đa phần được thực hiện trên cơ sở đạo luật (chẳng hạn Luật bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự 1959 của Nhật Bản, Luật Nhà nước bồi thường 1995 của Trung Quốc, Luật về bồi thường thiệt hại do tạm giữ, tạm giam oan của Pháp…) và đó chính là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm có hiệu quả quyền được bồi thường oan, sai.

– Cuối cùng, phải nhanh chóng rà soát, chấn chỉnh và nâng cao năng lực phẩm chất cho cán bộ tư pháp; hiện đại hóa, bảo đảm điều kiện vật chất kết hợp với việc xác định rạch ròi trách nhiệm cá nhân trong mỗi ngành nhằm hạn chế oan, sai đồng thời đẩy nhanh hiệu quả thương thuyết và giải quyết bồi thường.

4. Kết luận

Oan, sai là điều ít ai muốn nhưng cũng là điều khó loại bỏ hoàn toàn. Vấn đề là làm sao để hạn chế đến mức thấp nhất trình trạng oan, sai và làm thế nào để sửa sai cho hiệu quả, bảo đảm quyền được bồi thường của người bị hại và cảnh tỉnh những sai lầm tương tự trong tương lai.

Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Việc bồi thường thiệt hại cần được thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với những trường hợp cụ thể”. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày

2/1/2000 của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh: “Khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp oan sai trong tố tụng. Nghiên cứu xây dựng quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp”.

Đã đến lúc cần xem xét lại cả lý luận cũng như thực tiễn chế định bồi thường, xem lại nguyên tắc, thủ tục bồi thường oan, sai nhằm bảo đảm quyền được bồi thường cho người bị hại một cách thỏa đáng. Đó là mục đích của tiến trình cải cách tư pháp và cũng chính là đòi hỏi tất yếu của một xã hội công bằng mà chúng ta đang phấn đấu để đạt được.

Chú thích:

1 Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb TP. Hồ Chí Minh năm 2005, tr. 683 và tr. 772

2 Nguyễn Sĩ Dũng, Công lý gắn với pháp quyền, Tuổi Trẻ ngày 27/7/1994;

4 Ông Hoàng Minh Tiến đòi VKSND Hà Nội bồi thường 2.2 tỷ cho 1.309 ngày bị hàm oan. Sau nhiều lần thương lượng bất thành, ông Tiến đành khởi kiện ra tòa. Mới đây, tháng 6/2005, Toà án Quận Hai Bà Trưng đưa ra xét xử và tuyên vẫn giữ nguyên mức bồi thường 27.3 triệu khiến ông Tiến bức xúc cho biết sẽ tiếp tục kháng án lên trên; Vụ hai vợ chồng doanh nghiệp ở Kiên Giang tiếp tục khởi kiện Toà án Tỉnh đòi bồi thường gần 10 tỷ cho 6 năm bị kếtán oan do hai bên không thỏa thuận được mức bồi thường.

5 Sẽ không ngạc nhiên khi biết tính đến cuối năm 2003, cả nước mới có 3.543 thẩm phán, thiếu 1.210 người so với chỉ tiêu. Riêng TPHCM đến thời điểm này thiếu 89 thẩm phán. Nếu trung bình một thẩm phán xử 5 vụ/ tháng thì đến năm 2010 cơ quan xét xử còn thiếu 7.000 người. Cũng theo báo cáo của các ngành chức năng, tính đến năm 2000, chỉ có 48% cán bộ tư pháp có trình độ cử nhân. Riêng cán bộ cơ quan điều tra số thạo việc mới đạt 30 – 40%, 11% có trình độ sơ học hoặc chưa qua đào tạo;

6 Phát biểu tại cuộc họp báo ngày 3.6.2005, ông Dương Thanh Biểu, Phó Viện trưởng Viện KSNNDTC cho việc xét xử bồi thường oan sai cần giao cho một cơ quan chuyên trách độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn theo Viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát Ngô Quang Liễn, việc để Tòa án đứng ra xét xử bồi thường thiệt hại là chưa khách quan, thậm chí dư luận còn cho rằng cách giải quyết này sẽ thiên về bảo vệ quyền lợi cho Nhà nước, cá nhân và tổ chức gây ra oan sai.

7 Theo yêu cầu của Tòa án, vợ chồng ông Bùi Văn Mãnh ở Tiền Giang dù rất nỗ lực vẫn không tìm ra chứng cứ chứng minh thu nhập bị mất trong thời gian gian tù đày. Tuổi trẻ CN ngày 9/1/2005 có bài: “Bồi thường oan sai – con đường nhọc nhằn” đề cập những giọt nước mắt của một nông dân 84 tuổi ở Tiền Giang – ông Nguyễn Công Ơi khi hành trình 14 năm đòi công bằng của ông kết thúc không mấy tốt đẹp vì ông không đưa ra được y bạ, đơn thuốc chứng từ chứng minh bệnh tật hay nguồn thu nhập bị mất… để Viện kiểm sát lấy đó làm cơ sở bồi thường.

LÊ THỊ MẬN –  Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

 

 

Xếp hạng
5/5

Chia sẻ

Tư vấn trực tuyến

Bài viết liên quan

Giải đáp thắc mắc

Mức phạt nồng độ cồn trong máu và trong khí thở

Nồng độ cồn (BAC) là lượng cồn trong máu của một người. Nó được đo bằng miligam cồn trên 100 mililít máu (mg/dL). BAC có thể được đo bằng cách sử dụng nhiều loại phương pháp khác nhau, bao gồm: Hơi thở: Đây là phương pháp phổ biến nhất để đo

Xem chi tiết »

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc – Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long

Công ty luật chuyên:

Hình sự – Thu hồi nợ – Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.

  • Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
  • Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
  • Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109Email: dragonlawfirm@gmail.com

Hệ thống Website:

#luatsubaochua, #luatsutranhtung, #luatsuhinhsu, #luatsugioibaochua, #luatsubaochuahanoi, #luatsubaochuahaiphong

Điều luật tham khảo

Văn bản luật

Thủ tục liên quan đến thuê luật sư

Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự

Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có quyền nhờ luật sư bào chữa bao gồm:

  • Người bị bắt.
  • Người bị tạm giữ.
  • Bị can.
  • Bị cáo.
  • Bị hại.
  • Nguyên đơn dân sự.
  • Bị đơn dân sự.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài những đối tượng trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Hình sự năm 2012, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội cũng có quyền được nhờ luật sư bào chữa cho người bị buộc tội.

Quá trình tố tụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử – thi hành án. Bất kể một cá nhân, đại diện, tổ chức nào ngay khi nhận được giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan điều tra hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng nêu trên đều có quyền và cần thiết phải nhờ sự hỗ trợ của luật sư.

Tuy nhiên, vì quá trình tố tụng kéo dài đói hỏi người bảo vệ quyền lợi cho thân chủ phải là người đồng hành cùng thân chủ trong xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, thời điểm tốt nhất để có thể nhờ luật sư bào chữa là ngay khi nhận được giấy triệu tập từ cơ quan điều tra. Vì, khi đó, luật sư có thể can thiệp pháp lý và bảo vệ cho thân chủ ngay từ giai đoạn đầu tiên.

Luật sư hình sự sẽ giúp ích gì cho bạn?

Luật sư hình sự tham gia vào vụ án hình sự trong suốt quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm hoặc có thể trong giai đoạn tái phẩm hoặc giám đốc thẩm với vai trò là người được nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự ủy quyền tham gia vụ án hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ.

Tham gia vào ngay từ giai đoạn xác minh ban đầu, khi có giấy triệu tập và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, luật sư hình sự có những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu, xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định pháp luật để bảo vệ thân chủ. Đây là một trong những quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Đóng vai trò là người bảo vệ cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Vì sao bị can/bi cáo nên nhờ/thuê luật sư hình sự ngay từ ban đầu?

  • Từ khi bị triệu tập, nghi vấn phạm tội: có thể thuê luật sư ngay từ đầu để bảo vệ quyền lợi, có thể bị hình sự hóa trong quan hệ hình sự trong quá trình điều tra xét xử.
  • Giai đoạn tạm giam điều tra: Luật sư tiếp xúc trực tiếp với bị can/thân chủ hỏi cung, đối chất, đề xuất, kiến nghị tới cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu họ thực hiện đúng quy định pháp luật để bảo cho thân chủ.
  • Tham gia bảo vệ (bào chữa) cho thân chủ tại những phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giúp phiên tòa có cái nhìn khách quan hơn về động cơ, hoàn cảnh của thân chủ.
  • Luật sư hình sự là người am hiểu pháp luật, vận dụng những kỹ năng của một người luật sư, linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, tranh tụng giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
  • Luật sư hình sự sẽ là người tư vấn đưa ra những giải pháp tốt nhất, đảm bảo đúng quy định pháp luật cho thân chủ của mình.

Đối với người bị hại thì Luật sư hình sự sẽ giúp ích những gì?

  • Luật sư thu thập chứng cứ
  • Tư vấn pháp luật hình sự cho người bị hại hiểu được hành vi của bi can/bị cáo biết được tội danh mà cơ quan điều tra khởi tố với người phạm tội đã đúng hay chưa
  • Giúp cho người bị hại soạn thảo các đơn từ kiến nghị để việc khởi tố/truy tố đối với bị can gây ra thương tích, gây ra thiệt hại cho người bị hại là “đúng người đúng tội”
  • Vấn đề về bồi thường: Luật sư tư vấn soạn thảo tính toán mức bồi thường để đưa ra yêu cầu xém xét bồi thường.

Tiêu chí để lựa chọn dịch vụ luật sư hình sự là gì?

Thông thường, mọi người có xu hướng lựa chọn luật sư thông qua quen biết vì cho rằng luật sư thông qua quen biết sẽ có độ tín nhiệm cao hơn hoặc là và có thể “nhờ vả” được. vậy đây có phải là một tiêu chí để lựa chọn luật sư?

Theo quy định tại quy tắc số 5 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ của liên đoàn luật sư Việt Nam về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì một trong những quy tắc hành nghề chính là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây là một trong những quy tắc mà bất kì luật sư nào cũng thuộc nằm lòng.

Hơn nữa, hiện nay cuộc cách mạng cải cách tư pháp đã loại bỏ rất nhiều tiêu cực trong hoạt động tố tụng, quá trình xét xử, theo thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quá trình xét xử phải được ghi âm ghi hình đảm bảo sự minh bạch rõ ràng tránh những hoạt động, hành vi tiêu cực trong xét xử.

Bất kỳ luật sư nào cũng có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, và quy trình hoạt động tố tụng cũng đã được quy định chặt chẽ hơn, các hoạt động tiêu cực cũng từ đó bị triệt tiêu dần. Do đó, yếu tố người thân người quen không phải là một trong những yếu tố, tiêu chí để lựa chọn luật sư, mà tiêu chí để lựa chọn luật sư bao gồm những tiêu chí sau:

  • Luật sư có chuyên môn trong lĩnh vực hình sự, đây là một yếu tố quan trọng của một luật sư hình sự vì phải hiểu rõ lý luận pháp luật, cập nhật thường xuyên những thay đổi của pháp luật, am hiểu cơ chế hoạt động điều tra thì mới có thể bảo vệ tốt cho thân chủ của mình.
  • Luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, trong thực tiễn và tham gia tố tụng trong nhiều vụ án vì càng tham gia nhiều vụ án thì càng tích lũy được nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm thâm niên lâu có thể giải quyết được không chỉ những vấn đề pháp luật mà vấn đề quan hệ với các cơ quan tố tụng, cơ quan điều tra.
  • Thấu hiểu hoàn cảnh, động cơ, lý do, hoàn cảnh của thân chủ ví dụ như: do hoàn cảnh khó khăn, do nền tảng gia đình không tốt, do rơi vào tình thế bắt buộc, … từ đó mới xây dựng được phương án, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho thân chủ.
  • Chi phí dịch vụ luật sư, tùy vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể chi phí luật sư sẽ khác nhau, có những vụ án có tính chất phức tạp, thì ngoài chi phí luật sư còn nhiều chi phí khác như chi phí giám định thương tích thương tật, giám định tự thi, chi phí dựng hiện trường, … Do đó, Tùy vào từng vụ việc cụ thể và hoàn cảnh của thân chủ để đưa ra mức phí phù hợp.

Phí dịch vụ luật sư hình sự được tính như thế nào?

Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư phải thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng, tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của vụ án hình sự, chi phí dịch vụ hình sự không giống như các chi phí dịch vụ luật sư khác, không có mức phí cố định, rõ ràng.

Như đã đề cập ở trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể của vụ việc mà phí dịch vụ luật sư sẽ khác nhau. Chi phí luật sư trong vụ án hình sự rất phức tạp, tùy vào từng sự việc, luật sư đưa ra mức chi phí cụ thể, do đó, quý khách hàng cần phải gặp trực tiếp với luật sư của công ty luật để có thể trao đổi và đánh giá tính phức tạp của vụ việc mới có thể đưa ra được mức phí phù hợp

Ngoài chi phí dịch vụ luật sư, còn có những khoản phí riêng khác, không nằm trong chi phí dịch vụ luật sư như:

  • Chi phí giám định thương tật
  • Chi phí cho người làm chứng
  • Chi phí bồi thường dân sự

Có cam kết kết quả trong vụ án hình sự không?

Công ty luật Dragon của chúng tôi đảm bảo thực hiện công việc theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo tuân thủ đúng 27 quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam theo quy định tại Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội Đồng luật sư toàn quốc.

Công ty chúng tôi luôn đặt quyền lợi khách hàng lên đầu, cam kết giữ bí mật những thông tin liên quan đến khách hàng, đem những hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng hình sự, sự tận tâm, nhiệt tình của mình đến cho khách hàng.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài giới thiệu dịch vụ luật sư hình sự và hướng dẫn cách chọn luật sư hình sự. Quý khách hàng nếu có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hình sự của công ty chúng tôi hoặc có thắc mắc về chính sách dịch vụ luật sư của công ty vui lòng liên hệ hotline 098.301.9109 để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Luật Dragon nhận hỗ trợ “tư vấn” trực tuyến 24/24 qua các hình thức như sau:

  • Tư vấn pháp luật qua EMAIL: congtyluatdragon@gmail.com
  • Tư vấn pháp luật qua FACEBOOK: Fanpage Luật Dragon
  • CÔNG TY LUẬT DRAGON

    LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÝ KHÁCH!

    TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Add: Phòng 14.6, Tòa nhà Vimeco, Lô 9E, Đường Phạm Hùng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Tel: 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN LUẬT SƯ TẠI QUẬN LONG BIÊN:

    Add: Số 24 ngách 29 Phố Trạm phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI HẢI PHÒNG:

    Add: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm,Quận Hải An, Hải Phòng.

    Tel : 1900. 599. 979

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ TẠI TP HCM:

    Tel : 1900. 599. 979

    =====================

    BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY LUẬT DRAGON:

    Luật Sư Nguyễn Minh Long

    Điện Thoại: 098.301.9109

    Email: dragonlawfirm@gmail.com

Quy trình giải quyết vụ án hình sự

Từ khóa: thuê luật sư vụ án hình sự,Giá thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư vụ án hình sự,Có nên thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư có được bồi thường,Hợp đồng thuê luật sư,Chi phí thuê luật sư bào chữa, chi phí thuê luật sư bào chữa

Luật sư bào chữa giỏi tại Hải Phòng

Xã hội càng phát triển, nghề luật sư càng có vai trò quan trọng. Hằng ngày, nhiều tranh chấp, kiện tụng phát sinh và luật sư phải đứng ra tranh đấu để bảo vệ lẽ phải, công lý.

Bảo vệ lẽ phải

Luật sư Nguyễn Minh Long ở Văn phòng luật sư Dragon (Chi nhánh Hải Phòng) đã có gần 10 năm gắn bó với nghề. Giống như nhiều đồng nghiệp khác, công việc trong ngày của anh khá bận rộn và luôn phải di chuyển. Từ việc xếp lịch gặp khách hàng, lịch làm việc tại tòa án, đi thu thập chứng cứ… đều được anh thực hiện một cách cẩn trọng. Nhiều khi các luật sư còn trở thành chuyên gia tâm lý giúp thân chủ và người nhà yên tâm, tin tưởng vào lẽ phải.

Luật sư Long cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ công lý và lẽ phải. Vì vậy, mỗi vụ việc đều phải được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, chính xác, mất nhiều thời gian, công sức. Chỉ cần một sai sót cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường”.

Giữ tâm trong sáng

Luật sư Long chia sẻ, hơn 10 năm gần đây, xã hội, con người có nhiều thay đổi, phát sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp. Các vụ án liên quan đến kinh tế, hình sự, tranh chấp đất đai, hôn nhân – gia đình xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì thế, công việc của giới luật sư cũng vất vả gấp nhiều lần. Tuy nhiên, anh quan niệm phải luôn giữ tâm trong sáng để mỗi vụ việc đều được xử lý chính xác, theo đúng pháp luật. Nhiều lúc, các luật sư còn trở thành chuyên gia tư vấn  miễn phí.

Năm 2012, luật sư Long nhận tư vấn thủ tục ly hôn cho một phụ nữ ngoài 50 tuổi ở Quận Hồng Bàng. Do người chồng làm thợ xây nên hay đi nhiều nơi, có quan hệ phức tạp, về nhà thường chửi mắng vợ con. Không chịu nổi tình cảnh này, người vợ quyết định ly hôn. Qua tiếp xúc và tìm hiểu câu chuyện, anh Phán nhận thấy vẫn có cơ hội cứu vãn cuộc hôn nhân này. Bằng vốn kinh nghiệm qua từng vụ án và đời sống thường ngày, anh phân tích, giảng giải để người phụ nữ kia hiểu được điều hơn, thiệt. Lúc đầu, người phụ nữ này không nghe mà cương quyết đưa chồng ra tòa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tiếp xúc, động viên, phân giải, họ đã chữa lành được vết thương, bỏ qua những lỗi lầm để hàn gắn trở lại.

Một số người vẫn hay nghĩ luật sư là nghề có nhiều quan hệ, kiếm được nhiều tiền nhưng thực tế những khó khăn, vất vả chỉ có người trong nghề mới hiểu hết. Để có thể trở thành một luật sư phải trải qua một thời gian dài học tập và đào tạo. Theo quy định, ngoài tấm bằng cử nhân, luật sư phải qua lớp đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, thời gian tập sự và thi qua kỳ thi kết thúc tập sự. Thời gian này tối thiểu là 6 năm hoặc có thể kéo dài hơn. Có người theo đuổi cả chục năm mới trở thành một luật sư.

Luật sư Long cho biết: “Công việc vất vả lắm nhưng thu nhập của anh em luật sư cũng chỉ đủ sống. Nhiều khi gặp trường hợp khó khăn, người cao tuổi, gia đình chính sách, chúng tôi chỉ làm giúp chứ không nhận phí. Gặp người tốt, sau khi tư vấn hay hoàn tất vụ việc thì họ đến có lời cảm ơn. Nhưng cũng có trường hợp mình thấy vấn đề của họ khiếu nại là sai, phân tích để nhận ra lẽ phải thì họ phản ứng ra mặt, thậm chí còn có những lời nói không đúng mực. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn giữ vững cái tâm với nghề”.

Công việc vất vả nên không phải ai cũng gắn bó được với nghề. Vì thế, người trẻ thường ít chọn học luật và đầu tư thời gian, chất xám để trở thành luật sư. Hiện nay, Hải Phòng có hơn 100 luật sư đang hành nghề, trong đó có khoảng 30 người là người cao tuổi, đã nghỉ hưu. Chỉ có tình yêu nghề mới giúp họ gắn bó với nghề luật sư trong thời gian dài. Mặc dù khó khăn là thế nhưng các luật sư như anh Long  luôn tin rằng nghề luật sư sẽ có triển vọng trong tương lai vì góp phần bảo đảm công bằng xã hội.

Văn phòng luật sư Dragon Hải Phòng

Khi nào cần thuê luật sư bào chữa

Thuê luật sư là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị buộc tội, bị can, bị cáo và người thân thích của họ là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà… thuê luật sư bào chữa cho trường hợp của gia đình nhà mình

Vai trò của Luật sư, luật sư tham gia vụ án hình sự với vai trò là người bào chữa, khi thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tất cả các giai đoạn từ Điều tra vụ án, khởi tố vụ án, Truy tố vụ án và xét xử vụ án, luật sư sẽ thực hiện các quyền bào chữa để bảo chữa cho các bị can, bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình. Việc luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn này là hết sức cần thiết vì tham gia ngay từ ban đầu sẽ bảo đảm được quyền của người bị bắt cũng như làm sáng tỏ các sự kiện khách quan của vụ án

Thuê luật sư bảo chữa cho bị can khi phạm tội Khi một ai đó có hành vi phạm tội đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra, cơ quan Công an khởi tố vụ án và khởi tố bị can, lúc đó người bị khởi tố trở thành bị can và có quyền mời luật sư bào chữa cho mình để tham gia vào vụ án. Luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can sẽ giúp đỡ bị can về mặt pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết và hợp pháp để bảo vệ bị can. Quá trình bào chữa của luật sư cho bị can từ khi bị mời lên làm việc, khi bị khởi tố tại cơ quan Điều tra, khi bị Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can bằng Bản cáo trạng và cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. nói như vậy không có nghĩa là luật sư sẽ chấm dứt tư cách bào chữa cho bị can mà tư cách của bị can được chuyển sang thành tư cách Bị cáo.

Thuê luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Khi một bị can hay người bị buộc tội bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì lúc đó được chuyển sang một tư cách mới là tư cách bị cáo, Luật sư người bào chữa tiếp tục bào chữa cho bị cáo trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm nếu bị cáo có kháng cáo và tiếp tục mời luật sư bào chữa cho mình. Luật sư bào chữa cho bị cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cũng như trao đổi với bị cáo để sao cho bào chữa cho bị cáo được tốt nhất.

Thuê luật sư tham gia vụ án hình sự là trường hợp đã xác định một vụ án hình sự, vụ án có thể hình thành từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra hoặc có thể vụ án đã được Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành xem xét truy tố ra tòa án và cũng có thể vụ án đã được tòa án chuẩn bị đưa ra xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Luật sư tham gia vào vụ án hình sự sẽ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của người bào chữa để nghiên cứu hồ sơ và bào chữa cho người được bào chữa.

Thuê luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự: Trong vụ án hình sự liên quan đến thiệt hại luật sư sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, tham gia và các giai đoạn tố tụng tại Cơ quan Điều tra, Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án; sao chụp hồ sơ tài liệu, thu thập chứng cứ và đưa ra cũng như bảo vệ các yêu cầu về bồi thường thiệt hịa cho người bị hại. Trong quá trình tranh tụ tại Tòa án, Luật sư sẽ phát biểu quản điểm luận tội đối với các bị cáo đã gây ra cho bị hại; nếu vụ án cần phải kháng cáo luật sư sẽ giúp bị hại thực hiện việc kháng cáo bản án theo quy định.

Thuê luật sư bào chữa cho người chưa thành niên, người chưa thành niên khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (14 tuổi) nhưng chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi phạm tội thì bắt buộc phải có luật sư. Thông thường bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hay người giám hộ sẽ thuê luật sư bào chữa. Trường hợp không thể có điều kiện thuê luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư bào chữa. Đây là quyền cơ bản của người dưới thành niên để có thể bào chữa cho hộ được tốt nhất.

Luật sư bào chữa để trả hồ sơ điều tra bổ sung là trường hợp luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và vào từng giai đoạn cụ thể có thể là giai đoạn truy tố tại Viện kiểm sát, Luật sư kiến nghị việc trả hồ sơ cho cơ quan Điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc sau khi Viện kiểm sát đã quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng ra Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư kiến nghị Thẩm phán thụ lý vụ án ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tại phiên tòa luật sư bào chữa để Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Giai đoạn mà luật sư có quyền tham gia theo quy định tại Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

“a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân;

d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”

Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:

“Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định cụ thể tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

“1. Người bào chữa có quyền:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;

đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng văn bản pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

I. Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thuê luật sư bào chữa hình sự ở Hà Nội

Gọi cho một luật sư chuyên hình sự tại Hà Nội : 1900. 599. 979

Bạn đã bị buộc tội về một tội ác mà bạn đã không phạm phải và tìm kiếm công lý nhanh chóng và không bị tổn thương trong khi duy trì danh dự và nhân phẩm của bạn? Hoặc, có lẽ bạn đã là nạn nhân của một tội ác và tìm kiếm sự trừng phạt hợp pháp đối với những người đã làm hại bạn hoặc gia đình bạn. Bạn thậm chí có thể tự mình phạm tội và mong muốn giải quyết tốt nhất có thể. Bất kể nguyên nhân hay động cơ, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ tạo điều kiện cho công lý nhanh chóng và phù hợp cho các khách hàng tại Hà Nội và Hải Phòng của chúng tôi để họ nhận được phán quyết tốt nhất có thể.

Đó là, nếu bạn đã bị nhà nước buộc tội theo bộ luật hình sự, bắt buộc phải xuất hiện trước cơ quan quản lý hoặc muốn kháng cáo quyết định, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn cung cấp cho bạn sự hài lòng hoàn toàn. Hơn nữa, chúng tôi tính phí trên cơ sở lãi suất cố định để bạn nhận thức đầy đủ về các khoản chi tiêu trước khi chúng tôi thực hiện trường hợp của bạn. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về các cáo buộc ẩn hoặc những bất ngờ khó chịu khác trước và sau khi phán quyết được đưa ra.

Hơn nữa, Văn phòng Luật sư Dragon sẽ luôn bảo vệ bạn một cách trung thực và đạo đức. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện theo ý của chúng tôi để đảm bảo rằng công lý được đáp ứng và bạn sẽ nhận được phán quyết tốt nhất có thể, đưa ra bằng chứng. Văn phòng luật sư Dragon cũng sẽ tham khảo đầy đủ với bạn về các tùy chọn có sẵn và đề xuất lựa chọn tốt nhất cho nhu cầu duy nhất của bạn. Đó là, chúng tôi luôn đặt lợi ích tốt nhất của bạn lên hàng đầu và sẽ thực hiện các bước chủ động để vượt ra ngoài sự đại diện đơn thuần.

Ví dụ, các luật sư hình sự tại Hà Nội của chúng tôi được yêu cầu đăng ký vào các chương trình sáng kiến ​​giáo dục thường xuyên để họ cập nhật kiến thức hiểu biết hệ thống pháp lý – và tất cả các sắc thái của nó – một cách triệt để. Chúng tôi cũng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để đảm bảo rằng kiến ​​thức về các đạo luật pháp lý của chúng tôi luôn cập nhật và chính xác.

Do đó, nếu bạn đã bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, bạn sẽ cần một luật sư pháp lý tốt nhất để đưa ra phán quyết mà bạn mong muốn. Các công tố viên và luật sư hình sự tận tâm, có kinh nghiệm và có trình độ học vấn cao của chúng tôi có một hồ sơ theo dõi thành công đã được chứng minh và có khả năng sẽ tạo điều kiện cho bản án mà bạn và gia đình bạn mong muốn. Hơn nữa, chúng tôi đã xử lý các vụ án hình sự từ rửa tiền đến giết người hàng loạt. Do đó, không có vụ án hình sự nào ở Hà Nội quá tầm thường hay khó khăn đối với các luật sư hình sự tại Văn phòng Luật sư Dragon.

Hãy cho chúng tôi về trường hợp hay vụ việc của bạn

Đại diện tư vấn trực tiếp của chúng tôi luôn sẵn sàng 24/7 để hỗ trợ bạn và có thể lên lịch tư vấn với chuyên gia luật của chúng tôi.

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt

Thuê luật sư bào chữa cho người bị bắt là trường hợp người bị tình nghi hay còn gọi là nghi can có thể bị bắt quả tang hoặc bị tạm giữ song bắt hoặc bị mời về làm việc tại trụ sở cơ quan điều tra song bắt, trong tường hợp này người bị bắt có quyền thuê luật sư để bào chữa cho mình.

Người bị bắt tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt tạm giữa người bị bắt tạm giữ được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

Người bị bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp có các quyền:

– Được biết lý do mình bị giữ;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá và các quyền khác

Người bị bắt tạm giữ có được quyền nhờ luật sư. Theo quy định thì người bị bắt tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bảo chữa cho mình. Nếu nhờ luật sư bào chữa họ có quyền yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ việc liên hệ luật sư để họ có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, ngoài ra họ cũng có các quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

Người bị bắt theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì là bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt theo quyết định truy nã. Khi bị bắt người bị bắt có các nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của pháp luật.

Người bị bắt khi bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa và một số quyền cơ bản sau:

Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Và một số quyền khác.
Khi bị tạm giữ có được thuê luật sư? Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Ngoài các quyền cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc thuê luật sư bào chữa.

Thuê luật sư bào chữa tại Công ty luật Dragon. Vui lòng liên hệ: 1900.599.979

 

Khi chưa khởi tố mà nhận được giấy triệu tập của công an có nên thuê luật sư bào chữa

Tôi có giấy triệu tập của công an thành phố, liên quan đến tội trộm cắp xảy ra do bạn tôi làm đơn, mặc dù tôi khẳng định tôi không liên quan đến sự việc của bạn tôi mất trộm? mất bao nhiêu tiền? mất ở đâu ? như thế nào? bạn ấy làm đơn vu khống cho tôi.. Tôi bị công an gọi điện mời tôi, tôi vì không hiểu pháp luật nên đã ký hợp đồng thuê luật sư bào chữa bảo vệ cho tôi, đến lịch hẹn làm việc theo giấy triệu tập? Luật sư của tôi đi cùng tôi đến xuất trình tại công an điều tra như giấy giới thiệu, đơn mời luật sư bào chữa và thẻ luật sư, nhưng bên công an đã từ chối không cho luật sư bào chữa cho tôi tham gia với lý do, hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố tôi, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc, công an đề nghị tôi và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý? Lúc đấy tôi thấy luật sư bảo tôi cứ làm việc với công an và luật sư bỏ ra về. Tôi rất hoang mang và đã bị sốc nên từ chối không làm việc với công an và xin hẹn buổi khác, tôi có nói với công an là phải có luật sư thì tôi mới làm việc sau đó tôi đi về. Luật sư của tôi không giải thích cho tôi biết lý do và ý kiến của cơ quan điều tra đúng hay sai? Nay tôi nhờ luật sư tư vấn ý kiến của công an như vậy có đúng không? luật sư bảo vệ cho tôi làm như vậy có đúng không? Tôi rất hoang mang khi tìm chọn một công ty luật có uy tín mà lại có một luật sư hành xử như vậy? Rất mong Công ty luật Dragon tư vấn gấp cho tôi.

Phúc đáp yêu cầu tư vấn pháp luật của anh/chị, đề nghị cho ý kiến về một số nội dung pháp lý liên quan đến việc: người bị kiến nghị khởi tố/bị tố giác có được mời Luật sư không, Luật sư Công ty luật Dragon có ý kiến như sau:

*) Đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Theo như trình bày thì anh/chị đang bị tố giác về hành vi trộm cắp tài sản. Khoản 1 Điều 83 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác là người được người bị tố giác nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác (điểm a khoản 2 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, anh/chị có quyền mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay từ khi bị tố giác (từ khi chưa có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can).

Khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”.

Bộ Luật Tố tụng hình sự không quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác phải xuất trình những giấy tờ gì khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm làm việc thực tế của Luật sư và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 78 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những giấy tờ Luật sư cần xuất trình khi làm việc với Cơ quan CSĐT là: Giấy giới thiệu của công ty luật cử luật sư đến cơ quan điều tra làm việc, Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu đơn mời luật sư của người bị tố giác ( anh chị cũng như Luật sư không phải xuất trình Hợp đồng dịch vụ pháp lý).

Như vậy, việc công an từ chối không cho luật sư tham gia với lý do: hiện nay chưa khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can, công an chỉ mời lên làm rõ sự việc và đề nghị anh và luật sư bổ sung thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm tố tụng.

*) Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác:

Khoản 3 Điều 83 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác có quyền:

  1. a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  2. b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  3. c) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
  4. d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

đ) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh/chị không đưa ra ý kiến nào và bỏ về khi bị công an từ chối là không thực hiện quyền của mình theo quy định trên. Không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Việc anh/chị từ chối không làm việc với công an, xin hẹn buổi khác và nói với công an là phải có luật sư bào chữa cho anh/chị thì anh/ chị mới làm việc với cơ quan điều tra là đúng với quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm ý kiến của Thạc sĩ Luật sư Nguyễn Minh Long Giám đốc Công ty Luật Dragon – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội về nội dung vụ viêcj trên.

Để biết thêm thông tin chi tiết bạn có thể liên hệ với Luật sư Hà Nội và Luật sư Hải Phòng theo địa chỉ dưới đây.

  1. Trụ sở chính Công ty Luật Dragon tại quận Cầu Giấy:  Phòng 6, Tầng 14, Tòa nhà VIMECO, Đường Phạm Hùng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
  2. VPĐD luật sư Công ty luật Dragon tại quận Long Biên: Số 24 Ngõ 29 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Tp Hà Nội.
  3. Chi nhánh Công ty Luật Dragon tại Hải Phòng: Phòng 6 tầng 4 Tòa Nhà Khánh Hội, đường Lê Hồng Phong, quận Hồng Bàng, Tp Hải Phòng.

Công ty Luật Dragon cung cấp biểu phí và thù lao luật sư bào chữa tham khảo tại đây

Trân trọng!