Quyết định giám đốc thẩm 24/2009/KDTM-GĐT ngày 26/11/2009 về việc tranh chấp hợp đồng xây dựng

225

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 24/2009/KDTM-GĐT NGÀY 26/11/2009 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Ngày 26 tháng 11 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi; có trụ sở tại 194 Trần Hưng Đạo, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; do ông Lê Hồng, Phó Giám đốc Chi nhánh đại diện;

Bị đơn: Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex; có trụ sở tại Lô L5, khu công nghiệp Quảng Ngãi, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; do bà Trương Thị Tường Vân, trú tại 30-32 Trịnh Lỗi, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, Giám đốc Công ty đại diện.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày15/3/2006, Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 26/6/2006, lời khai của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thì thấy:

Ngày 21/10/2002 Công ty liên doanh xuất nhập khẩu may mặc Myeng Jei Apparel (giữa bên Việt Nam là Công ty cổ phần du lịch, thương mại, cung ứng và may mặc Tường Vân do bà Trương Thị Tường Vân làm Giám đốc với bên nước ngoài là Công ty TNHH Myeng Jei Apparel (Hàn Quốc)) được cấp giấy phép đầu tư, do bà Trương Thị Tường Vân là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiểm Tổng giám đốc.

Từ ngày 27/01/2003 đến ngày 16/01/2003, Công ty liên doanh xuất nhập khẩu may mặc Myeng Jei Apparel (sau đây viết và gọi tắt là Công ty Liên doanh) ký kết 6 Hợp đồng tín dụng vay tiền của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam-Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi (sau đây viết và gọi tắt là Ngân hàng Quảng Ngãi), gồm:

– Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD ngày 27/01/2003 với số tiền vay là 700.000.000 đồng;

– Hợp đồng tín dụng số 02/HĐTD ngày 21/03/2003 với số tiền vay là 300.000.000 đồng;

– Hợp đồng tín dụng số 03/HĐTD ngày 21/3/2003 với số tiền vay là 500.000.000 đồng;

– Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD ngày 03/6/2003 với số tiền vay là 300.000.000 đồng;

– Hợp đồng tín dụng số 05/HĐTD ngày 17/11/2003 với số tiền vay là 350.000.000 đồng;

– Hợp đồng tín dụng số 06/HĐTD ngày 16/01/2004 với số tiền vay là 900.000.000 đồng.

Các Hợp đồng tín dụng nêu trên đều có thời hạn cho vay là 12 tháng, lãi suất 0,85%/tháng và các khoản tiền vay đều được đảm bảo bằng tài sản.

– Các Hợp đồng tín dụng số 01, 02, 03, 04 và 05 được đảm bảo bằng 4 Hợp đồng cầm cố tài sản số 01/HĐCCTS ngày 27/01/2003, số 02/HĐCCTS ngày 21/02/2003, số 03/HĐCCTS ngày 21/03/2003, số 04/HĐCCTS ngày 03/6/2003, tài sản được đảm bảo đều là các thiết bị may có tổng giá trị là 4.857.247.700 đồng.

– Còn đối với Hợp đồng tín dụng số 06, thì ngày 7/01/2004, bà Trương Thị Tường Vân cùng chồng là ông Lê Hùng Sơn có ký Hợp đồng bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đát, tài sản gắn liền với đất số 01/TC, với nội dung: Vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn đem ngôi nhà cấp 4B có diện tích 24,14mtrên diện tích đất 72 mtại 118/6A đường Nguyễn Sơn (đường số 01 cũ), phường 18, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (nay là phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10497/98 ngày 21/8/1998 do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấp mang tên ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn bảo lãnh cho khoản vay tại Hợp đồng tín dụng số 06 này.

– Đến ngày 14/4/2005, Công ty Liên doanh chấm dứt hoạt động theo Quyết định về việc chuyển đổi hình thức đầu tư số 36/QĐ-BQL ngày 14/4/2005 của Trưởng ban quản lý các khu công nghiệp Quảng Ngãi.

– Ngày 25/4/2005, Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex do bà Trương Thị Tường Vân làm Giám đốc được thành lập. Ngày 18/7/2005, Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex có Công văn số 01/TB-MAX gửi Ngân hàng thông báo kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mọi khoản nợ vay Ngân hàng Quảng Ngãi của Công ty Liên doanh sẽ được chuyển cho Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex

– Ngày 10/11/2005, Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex (Bên A) do bà Trương Thị Tường Vân-Giám đốc làm đại diện và Ngân hàng (Bên B) đã lập Giấy nhận nợ, với nội dung:

Hai bên thống nhất việc bên A cho bên B nhận nợ tiền vay theo thỏa thuận dưới đây:

Điều 1: Số hợp đồng nhận nợ, số tiền nhận nợ, cùng số tài sản đảm bảo kèm theo, nhận toàn bộ số nợ (gốc và lãi) của 6 Hợp đồng tín dụng nêu trên đã ký giữa Công ty Liên doanh và Ngân hàng Quảng Ngãi tính đền ngày 31/10/2005, gốc là 3.050.000.000 đồng, lãi là 694.197.709 đồng.

Điều 2: Quyền và nghĩa vụ của bên nhận nợ, Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của Công ty Liên doanh tại các Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh đã ký với Ngân hàng Quảng Ngãi cho đến khi Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex trả hết nợ gốc và lãi cho Ngân hàng Quảng Ngãi.

N đã nhiều lần yêu cầu, trước là Công ty Liên doanh sau là Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex thanh toán các khoản nợ vay nhưng Công ty cứ khất lần không chịu thanh toán, nên ngày 15/3/2006 và ngày 26/6/2006, Ngân hàng Quảng Ngãi khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex do bà Trương Thị Tường Vân làm Giám đốc phải trả tổng số tiền 4.064.248.333 đồng, trong đó, tiền gốc là 3.050.000.000 đồng, tiền lãi (tính đến ngày 4/7/2006) là 1.014.248.333 đồng và đề nghị phát mãi tài sản đã cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để thanh toán nợ vay.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 4/7/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã áp dụng khoản 7 Điều 351; Điều 355; khoản 5 Điều 721 Bộ luật dân sự, xử:

“Buộc Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex do bà Trương Thị Tường Vân đại diện theo pháp luật phải trả cho Ngân hàng tiền gốc 3.050.000.000 đồng và tiền là 1.014.248.333 đồng. Tổng cộng 4.064.248.333 đồng.

Bà Trương Thị Tường Vân còn phải tiếp tục trả lãi của tiền gốc vay kể từ ngày 05/7/2006 cho đến khi thanh toán xong nợ vay.

Tiếp tục kê biên các loại tài sản theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 284 ngày 04/5/2006 để đảm bảo việc thi hành án.

Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ hết hiệu lực khi đã thi hành xong bản án.

Buộc bà Trương Thị Tường Vân đại diện theo pháp luật phải nộp 31.064.248 đồng án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm…”.

Ngày 09/12/2008, bà Trương Thị Tường Vân và ông Công ty Liên doanh có đơn đề nghị xét lại bản án sơ thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm,

Tại Quyết định kháng nghị số 12/KDTM-KN-KT ngày 29/6/2009 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 4/7/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 4/7/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,

XÉT THẤY

1. Về tố tụng.

Theo quy định tại khoản 3, 4 và 5 Điều 92 Bộ luật dân sự, thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam-Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân chứ không phải là pháp nhân. Pháp nhân là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Vì vậy, theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 và điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 phần I của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Công văn số 38/KHXX ngày 29/3/2007 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc pháp nhân khởi kiện và ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự, thì trong vụ án này nguyên đơn phải là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chứ không phải là Ngân hàng Quảng Ngãi như Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định.

Đồng thời, khi Ngân hàng Quảng Ngãi thực hiện việc khởi kiện theo ủy quyền đã làm đơn khởi kiện chưa đúng quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 và Công văn số 38 nêu trên. Mặt khác, vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn có ký Hợp đồng bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 01/TC ngày 7/01/2004 với Ngân hàng để bảo lãnh cho Công ty Liên doanh vay 900.000.000 đồng tại Hợp đồng tín dụng số 06/HĐTD ngày 16/01/2004 nhưng khi giải quyết và quyết định những vấn đề liên quan đến các hợp đồng này thì Tòa án cấp sơ thẩm không xác định vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án để đưa họ vào tham gia tố tụng là vi phạm tố tụng và không đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ.

2. Về nội dung.

Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex do bà Trương Thị Tường Vân -Giám đốc làm đại diện phải trả tiền gốc và tiền lãi là đúng nhưng quyết định trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam-Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi là không chính xác mà phải trả cho Ngân hàng Quảng Ngãi (do người được Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam ủy quyền nhận) mới đúng.

Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Trương Thị Tường Vân còn phải tiếp tục trả lãi của tiền gốc vay cũng như phải chịu án phí là không đúng mà người phải chịu là Bị đơn- Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex, vì cá nhân bà Trương Thị Tường Vân không vay tiền và không buộc phải trả tiền.

Bà Trương Thị Tường Vân và ông Công ty Liên doanh chỉ bảo lãnh cho khoản tiền vay là 900.000.000 đồng tại Hợp đồng tín dụng số 06 mà không bảo lãnh cho các khoản vay khác ở 5 hợp đồng còn lại nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử “Tiếp tục kê biên các loại tài sản theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 284 ngày 04/5/2006 để đảm bảo việc thi hành án” cho tất cả các khoản nợ của cả 6 hợp đồng tín dụng là không chính xác, không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân và Lê Hùng Sơn. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa quyết định rõ ràng về trách nhiệm của người được bảo lãnh và người bảo lãnh (vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân và Lê Hùng Sơn) cũng như cách xử lý tài sản của người được bảo lãnh và người bảo lãnh (nhà, đất của vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn là tài sản bảo lãnh), như: Trong trường hợp Công ty cổ phần Thương mại-Sản xuất-Xuất nhập khẩu Maxgarmex không trả được khoản tiền gốc 900.000.000 đồng và tiền lãi của khoản tiền vay này thì bà Trương Thị Tường Vân và Lê Hùng Sơn phải trả thay; trường hợp ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn không trả được hoặc không trả đủ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cơ quan Thi hành án dân sự) phát mại tài sản bảo lãnh là nhà và đất (theo hợp đồng bảo lãnh) để thu hồi đủ số tiền gốc và lãi cho Ngân hàng tại Hợp đồng tín dụng số 6. Đồng thời, đối với các Hợp đồng cầm cố tài sản cũng phải quyết định rõ ràng về việc xử lý tài sản cầm cố để thu hồi nợ cho Ngân hàng trong trường hợp Công ty không trả hoặc không trả đủ.

3. Về biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Ngân hàng yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, ngày 4/5/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định số 248/2006/QĐ-BPKCTT áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo các Điều 108, 109 và 110 Bộ luật tố tụng dân sự, theo đó kê biên tài sản tại 04 Hợp đồng cầm cố tài sản và 01 Hợp đồng bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (Nhà và đất mà vợ chồng ông, bà Trương Thị Tường Vân, Lê Hùng Sơn đem bảo lãnh) nhưng không thuộc Ngân hàng phải thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại tiểu mục 5.3 mục 5 và mục 8 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự mà vẫn ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không đúng pháp luật.

Do quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa được Cơ quan thi hành án thi hành nên tại bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: “Tiếp tục kê biên các loại tài sản theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 248 ngày 4/5/2006 để đảm bảo thi hành án. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ hết hiệu lực khi đã thi hành xong bản án”. Việc Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định này tại bản án là không đúng, vì trong trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên chưa được thi hành theo quy định tại Điều 126 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án cần có văn bản yêu cầu cơ quan Thi hành phải thi hành. Mặt khác, việc ra quyết định được thực hiện theo quy định tại Chương VIII Bộ luật tố tụng dân sự và được ban hành bằng một quyết định riêng độc lập với bản án như hướng dẫn tại Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nêu trên (có các mẫu Quyết định kèm theo).

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 4/7/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

 

 

 

 

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai