Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm các tội phạm về ma túy

231

1. Kháng nghị giám đốc thẩm Số 27/VKSTC-V3 ngày 21-5-2002 đối với vụ án Chung Ứng Xồi phạm tội :”mua bán trái phép chất ma túy”.

Xét bản án hình sự phúc thẩm số 872/HSPT ngày 22-10-2001 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân  tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt Chung Ứng Xồi  sinh năm 1957; trú tại 746 Nguyễn Dung, phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh;  về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

NHẬN THẤY

Ngày 16-12-1998 công an quận 5 thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Lê Thanh Vũ và Nguyễn Ngọc Thanh đang trên đường đưa 35,0523 gram hêrôin đi bán. Vũ khai hêrôin do Chung ứng Xồi giao để đi bán cho một người tên là Triển (không xác định được lai lịch). Ngày 20-3-1999 cơ quan điều tra bắt giam Chung ứng Xồi, nhưng Xồi đã trốn khỏi địa phương.

Đến khoảng 0 giờ 5 phút ngày 21-10-1999 cơ quan Công an bắt được Chung ứng Xồi   theo lệnh truy nã. Kiểm tra nơi ở của Xồi tại số nhà 116/11 đường Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh thu giữ một hộp thiếc mầu đỏ bên trong đựng một cục chất bột màu trắng và một cân tiểu li điện tử, một ông hút cuộn bằng tờ giấy bạc loại 10.000đ và một số tài sản khác.

Theo kết quả giám định chất bột màu trắng có chữ ký của Chung ứng Xồi  là hêrôin, nặng 18,8157 gram.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 140/HSST ngày 6-02-2001, Tòa án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm h khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Chung ứng Xồi  14 năm tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 tuyên bố Chung ứng Xồi  không phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/KN-PT ngày 16-02-2001 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm nêu trên và đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm kết án Chung ứng Xồi   về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 872/HSPT ngày 22-5-2001, Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo  Chung ứng Xồi  thêm tội “mua bán trái phép chất ma túy”. Kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Chung ứng Xồi về tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Chung ứng Xồi  không phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy” là bỏ lọt tội phạm. Bởi lẽ:

Theo lời khai của Chung ứng Xồi: Tại biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang lập hồi 1 giờ 35 phút ngày 21-10-1999, Chung ứng Xồi  khai nhận: Hôm nay vào hồi 0 giờ 5 phút bị công an bắt theo lệnh truy nã tại nơi ở số 116/11 Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Tân Bình. Sau khi bị bắt giữ cơ quan công an đã khám xét thu giữ tại chỗ ngủ của tôi một cân tiểu li điện tử và 5 chỉ hêrôin … số hêrôin tôi mua về hút và bán lại”. Tiếp theo đó, lời khai vào lúc 3 giờ 30 phút cùng ngày Chung ứng Xồi  khai nhận: “Chất bột màu trắng đó là 5 chỉ hêrôin tôi mua ở hẻm Cô Giang với giá 15 triệu đồng, cân tiểu li điện tử và lưỡi dao lam là dụng cụ để phân chia ma túy… Tôi mua hêrôin về để hút và phân chia bỏ mối lại cho những người bán lẻ và những người nghiện. Tôi bán hêrôin khoảng gần  một năm nay”.

Theo lời của Lê Thanh Vũ: Tôi quen Xồi tại một sòng bạc, một thời gian Xồi tin tưởng tôi bắt đầu giao hêrôin cho tôi bán cho khách. Khi nào khách hàng có yêu cầu khách hàng gọi điện thoại cho tôi, tôi điện cho Xồi để hẹn lấy hêrôin, Xồi trực tiếp giao hêrôin cho tôi đưa đi bán rồi về giao tiền lại cho Xồi để hưởng tiền công. Tùy khách mua hàng nhiều, ít để được tính công, nhiều khoảng 600.000đồng, ít khoảng 300.000đồng; Tôi lấy hêrôin  ở Xồi 3 lần, số hêrôin bị công an bắt quả tang tôi lấy của Xồi định giao bán cho Triển…

Tại biên bản đối chất giữa Chung ứng Xồi  với Lê Thanh Vũ ngày 21-12-1999 thì Vũ vẫn khai nhận: Chung ứng Xồi  đã giao hêrôin (35,0523 gram) cho Vũ đi bán cho Triển thì bị công an quận 5 bắt quả tang ngày 16-12-1998. Ngoài ra, trước đó  Vũ đã 2 lần lấy hêrôin từ  Xồi mang đi bán.

Theo lời khai của Nguyễn Ngọc Thanh: Hôm bị bắt tôi là người đi cùng với Vũ. Vũ dùng xe honda chở tôi qua quận 8 gặp Xồi để lấy hêrôin, trên đường về bị Công an bắt. Tôi chưa gặp Xồi lần nào, nhưng biết tên vì trên điện thoại liên lạc Vũ nói Ba Xồi và tôi biết nguồn thuốc hêrôin mà Vũ hút là lấy từ Ba Xồi.

Mặc dù Chung ứng Xồi không khai nhận số hêrôin Vũ đem đi bán bị bắt quả tang là của Xồi giao cho Vũ đi bán,  nhưng căn cứ vào các lời khai của Chung ứng Xồi, của Lê Thanh Vũ và của Nguyễn Ngọc Thanh cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án thì có đủ căn cứ kết luận Chung ứng Xồi  có hành vi mua bán trái phép 35,0523 gram hêrôin. Hành vi của Chung ứng Xồi  đã phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy” như cáo trạng truy tố. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử tuyên Chung ứng Xồi  không phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy” là không có căn cứ; bỏ lọt hành vi phạm tội.

Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 872/HSPT ngày 22-5-2001 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và một phần bản án hình sự sơ thẩm số 140/HSST ngày 6-2-2001 của Tòa án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm lại kết án Chung ứng Xồi  về tội “mua bán trái phép chất ma túy” .

 __________________ 

– Lý do kháng nghị huỷ bản án hình sự phúc thẩm và một phần bản án hình sự sơ thẩm:

Mặc dù Chung ứng Xồi không nhận tội nhưng căn cứ vào lời khai của Nguyễn Ngọc Thanh và Lê Thanh Vũ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì có đủ cơ sở kết luận Chung ứng Xồi phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm:

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 15/HĐTP-HS ngày 23-12-2002 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: “Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 872/HSPT ngày 22-5-2001 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và một phần bản án hình sự sơ thẩm số 140/HSST ngày 6-2-2001 của Tòa án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử  và tuyên áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 tuyên bố Chung ứng Xồi  không phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”. Giao hồ sơ  cho Tòa án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo hướng kết án Chung ứng Xồi  về tội “mua bán trái phép chất ma túy” . 

 

2. Kháng nghị giám đốc thẩm Số 70/VKSTC-V3 ngày 28-10-2002 đối với vụ án: Hà Thị Tú phạm tội :”mua bán trái phép chất ma túy”

Xét bản án hình sự phúc thẩm số 490/HSPT ngày 24-4-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân  tối cao tại Hà Nội xử phạt Hà Thị Tú sinh năm:1959; trú tại: thôn 6, xã Quang Trung thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội: “mua bán trái phép chất ma túy”.

(Trong vụ án này còn có các bị cáo: Lê Đăng Ba và Lê Hà Thanh đều bị kết án về tội “mua bán trái phép chất ma túy” không bị kháng nghị).

NHẬN THẤY

Vào khoảng11 giờ 30 phút ngày 19-6-2001 công an thị xã Bỉm Sơn bắt quả tang Hà Thị Tú, Lê Hà Thanh bán trái phép hêrôin cho Lê Duy Long và An Văn Tuấn, thu trong người Lê Duy Long 2 tép hêrôin có trọng lượng là 0,05 gram và thu trong người Hà Thị Tú số tiền 80.000đ. Tại cơ quan điều tra Lê Duy Long khai: Khoảng 7 giờ 15 phút ngày 19-6-2001 Lê Duy Long đến nhà Hà Thị Tú mua của Lê Đăng Ba (chồng Tú) một tép hêrôin giá 40.000đ. Tiếp tục đến hơn 11 giờ cùng ngày Lê Duy Long và An Văn Tuấn lại đến nhà Hà Thị Tú mua hêrôin và Lê Duy Long đưa cho Hà Thị Tú số tiền 80.000đ, vài phút sau Lê Hà Thanh (con Tú) ở trong nhà gọi Lê Duy Long đến cửa sắt của gia đình Tú nhận 2 tép hêrôin thì bị bắt quả tang.

Hà Thị Tú và Lê Hà Thanh cùng cháu Lê Hà Trang (11 tuổi 10 tháng) khai như sau: Sau khi Tú nhận tiền của Lê Duy Long thì Tú nói với cháu Trang “lấy hai cái 40” cháu Trang vào trong nhà và nói “lấy 2 cái 40” rồi quay ra chỗ Tú ngồi chơi. Sau khi nghe cháu Trang nói như vậy thì Lê Đăng Ba và Lê Hà Thanh đang ở trong nhà hiểu ý cháu Trang nên Thanh đã đi ra cửa sắt lấy 2 tép hêrôin rồi gọi Lê Duy Long đến lấy. Khi Lê Duy Long đến thì Thanh đưa 2 tép hêrôin qua cửa sắt cho Long thì bị công an bắt. Ngoài lần này, trước đó Thanh còn nhiều lần bán hêrôin cho các con nghiện là Nguyễn Thị Châu, Phạm Tuấn Anh. Còn Lê Đăng Ba khai nhận: từ ngày 13-6-2001 đến ngày 19-6-2001 đã bán hêrôin cho các con nghiện là Lê Duy Long, Phan Kiều Hưng, Phạm Văn Đức và Vũ Đức Trung.

Tại thông báo kết quả giám định số 240/PC21 công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Cục chất bột màu ngà trắng trong 2 tép nhỏ gửi giám định có thành phần hêrôin.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 240/HSST ngày 24-12-2002 Tòa án nhân dân  tỉnh Thanh Hóa áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Hà Thị tú 2 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

Sau khi xét xử sơ thẩm Hà Thị Tú kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 490/HSPT ngày 24-4-2002, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội vẫn giữ nguyên tôị danh và hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm đối với Hà Thị Tú và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự để xét xử đối với Tú là không đúng pháp luật vì Tú có hành vi sử dụng trẻ em vào việc phạm tội được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cháu Lê Hà Trang đến ngày 19-6-2001 là 11 tuổi 10 tháng. Bởi vậy, hành vi của Hà Thị Tú bảo cháu Lê Hà Trang lấy 2 tép hêrôin để bá cho Lê Duy Long là hành vi sử dụng trẻ em vào việc phạm tội được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tòa án cấp sơ thảm và phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với Hà Thị Tú là không đúng pháp luật.

   Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 490/HSPT ngày 24-4-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

Đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm  hủy một phần bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và một phần bản án hình sự sơ thẩm số 240/HSST ngày 24-12-2002 của Tòa án nhân dân  tỉnh Thanh Hóa đối với Hà Thị Tú  để xét xử sơ thẩm lại cho đúng quy định của pháp luật.

__________________

 

– Lý do kháng nghị hủy một phần bản án hình sự phúc thẩm và sơ thẩm:

+ Áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự.

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm:

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 22/HĐTP-HS ngày 24-12-2002 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao  đã  quyết định: Hủy phần bản án hình sự phúc thẩm số 490/HSPT ngày 24-4-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và phần bản án hình sự sơ thẩm số 240/HSST ngày 24-12-2002 của Tòa án nhân dân  tỉnh Thanh Hóa đối với Hà Thị Tú. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân  tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm lại cho đúng pháp luật” với nhận định như kháng nghị nêu trên.

 

3. Kháng nghị giám đốc thẩm Số 78/VKSTC-V3 ngày 18/12/2002 đối với vụ án Bùi Hữu Tài phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”

Xét bản án hình sự phúc thẩm số 920/HSPT ngày 28/5/2001, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Bùi Hữu Tài, sinh năm 1968; tạm trú tại: 467E/78 Lê đại hành, phường 11, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý”.

(Trong vụ án này còn có các bị cáo Nguyễn Thị Hoa, Hồng Kim Liên, Trần Phú Thành và Lục Kỳ Thanh không bị kháng nghị).

NHẬN THẤY

Vào khoảng tháng 2/1998, Bùi Hữu Tài đã nhập cảnh từ Mỹ về Việt Nam với hộ chiếu Mỹ số 035442126 mang tên Nguyễn Mạnh Cường. Tại thành phố Hồ Chí Minh. Bùi Hữu Tài đã cư trú rất nhiều nơi và thường thuê khách sạn để ở. Đến tháng 7/1998 Tài thuê nhà số 467E/78, Lê Đại hành, phường 11, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh tạm trú. Do nghiện Hêrôin từ năm 1996 và thông qua Lưu Ngọc Lân, Bùi Hữu Tài đã quen biết Nguyễn Thị Hoa là đối tượng mua bán Hêrôin và thuốc phiện nên từ tháng 2/1998 đến tháng 9/1998 Tài đã mua của Hoa 200 gram Hêrôin để sử dụng. Ngoài ra vào khoảng tháng 4/1998 Tài đã mua của Hoa 4 bánh Hêrôin cho Trần Quang Minh là Việt kiều tại Nhật Bản (Minh nhờ mua 6 bánh). Đến đầu tháng 9/1998 Bùi Hữu Tài còn mua của Hoa là 1,1 kg thuốc phiện cho Khoa là Việt kiều tại Mỹ và số thuốc phiện này Tài chưa kịp chuyển cho Khoa thì ngày 13/9/1998 Tài bị bắt và bị thu giữ. Quá trình điều tra còn xác định được Bùi Hữu Tài đã nhiều lần cho Trương Tuấn Ngọc hút Hêrôin tại nhà thuê của mình ở số 467E/78 Lê Đại Hành.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 2824/HSST ngày 24/11/2000, Toà án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh áp dụng Điều 7; khoản 4  Điều 194; khoản 2 Điều 197; khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1985 xử phạt Bùi Hữu Tài tử hình về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và 7 năm tù về tội “tổ chưc sử dụng trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp hình phạt buộc Bùi Hữu Tài phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 tội là tử hình.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 920/HSPT ngày 28/5/2001, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên các quyết định về tội danh và hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm đối với Bùi Hữu Tài.

XÉT THẤY

Tại Cơ quan điều tra lúc đầu Bùi Hữu Tài khai nhận mua 6 bánh Hêrôin, nhưng những lời khai sau đó Tài chỉ nhận mua 4 bánh Hêrôin của Nguyễn Thị Hoa chuyển cho Minh. Theo lời khai của Nguyễn Thị Hoa thì Tài hỏi mua 6 bánh Hêrôin, nhưng Hoa chỉ bán cho Tài 4 bánh và đã nhận đủ tiền. Cơ quan điều tra kết luận Bùi hữu Tài mua 4 bánh Hêrôin, Viện kiểm sát truy tố Bùi Hữu Tài đã có hành vi mua 4 bánh Hêrôin của Nguyễn Thị Hoa để chuyển sang Nhật Bản cho Trần Quang Minh và bản án hình sự sơ thẩm cũng kết án Bùi Hữu Tài đã có hành vi mua 4 bánh Hêrôin của Nguyễn Thị Hoa. Nhưng bản án hình sự phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh lại nhận định rằng Bùi Hữu Tài mua của Nguyễn Thị Hoa là chủ yếu và rất nhiều lần là 6 bánh Hêrôin khoảng 2kg để bán cho Minh là không chính xác và không phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 920/HSPT ngày 28/5/2001 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Hội đồng thẩm phán – Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm sửa lại phần nhận định của bản án cho chính xác về số lượng và trọng lượng Hêrôin mà Bùi Hữu tài đã mua bán với Nguyễn Thị Hoa.

_____________________________

 

– Lý do kháng nghị bản án phúc thẩm:

+ Phần nhận định của bản án hình sự phúc thẩm về số lượng và trọng lượng Hêrôin mà bị cáo mua bán không chính xác.

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm:

Tại quyết định giám đốc thẩm số 03/HĐTP – HS ngày 27/3/2003, Hội đồng thẩm phán  Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: “Sửa phần nhận định của bản án hình sự phúc thẩm số 920/HSPT ngày 28/5/2001 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh như sau: Tại trang 08 dòng 19, 20 từ dưới lên ghi “…bị cáo mua của Nguyễn Thị Hoa là chủ yếu và rất nhiều lần là 06 bánh Hêrôin khoảng 02kg để bán cho Minh Trắng…”. Nay được sửa lại như sau: “…bị cáo mua của Nguyễn Thị Hoa là chủ yếu và rất nhiều lần là 04 bánh Hêrôin khoảng 1,4kg để bán cho Trần Quang Minh ”; tại trang 9 dòng 19, 20 từ dưới lên ghi “…ở đây bị cáo mua bán trên 02 kg…”. Nay được sửa lại như sau “… ở đây bị cáo mua bán 1,4 kg…”; tại trang 9 dòng 16 từ dưới lên ghi “… vì 02 kg Hêrôin và trên 01 kg thuốc phiện đã vào cơ thể người khác…” . Nay được sửa lại như sau: “vì 1,4 kg Hêrôin và trên 01 kg thuốc phiên đã vào cơ thể người khác”. Với nhận định như kháng nghị nêu trên.

 

4. Kháng nghị giám đốc thẩm Số 21/VKSTC-V3 ngày 13-6-2003 đối với vụ án: Lê Thị Thu Huyền phạm tội :”mua bán trái phép chất ma túy”

Xét bản án hình sự phúc thẩm số 1334/HSPT ngày 10-8-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên đối với Lê Thu Huyền sinh năm 1974; trú tại TK 46/1 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho, quận 1, TP Hồ Chí Minh không phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”

(Trong vụ án này còn có các bị cáo Lê Thị Minh Hải, Lê Xuân Siêu đều bị xử phạt về tội “mua bán trái phép chất ma túy” và Nguyễn Thị Hương bị xử phạt về tội “che dấu tội phạm” không bị kháng nghị).

NHẬN THẤY

Vào khoảng16 giờ 30 phút ngày 3-8-2000 Nguyễn Thị Hồng ở thành phố Vũng Tàu đến số nhà TK 46/1 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh để mua 2 phân hêrôin. Tại đây Hồng đưa 350.000 đồng cho Lê Thị Minh Hải và Hải đưa số tiền này cho Nguyễn Thị Hương cất giữ trong túi quần rồi bảo Lê Xuân Siêu vào trong bếp lấy hêrôin giao cho Hồng thì bị các chiến sĩ công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phối hợp với công an phường Cầu Kho, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang.

Khám xét và thu giữ tại bếp nhà Hải được 2 chiếc bóp bên trong có chứa 22 bọc nilon đựng chất bột màu trắng và dưới bỏ thùng bia có một bọc nilon đựng chất bột màu trắng. Thu giữ tại ngăn kéo tủ nhỏ ở lầu một số tiền là 10.850.000 đồng và 600 USD. Thu giữ tại phòng vệ sinh số tiền là 20.040.000 đồng và 2 chiếc điện thoại di động của Lê Thu Huyền. Tại cơ quan công an phường Cầu Kho khi cơ quan điều tra đang lập biên bản phạm tội quả tang thì Huỳnh Hữu Nhơn là đối tượng mua bán hêrôin gọi vào điện thoại di động của Huyền hỏi mua hêrôin và cơ quan điều tra đã tiến hành bắt khẩn cấp Lê Thu Huyền.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 708/HSST ngày 12-6-2002 Toà án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm p, h khoản 2 Điều 194; điểm p, s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Lê Thị Minh Hải 8 năm tù và Lê Xuân Siêu 7 năm tù đều về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”; áp dụng khoản 1 Điều 313; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Nguyễn Thị Hương 1 năm 10 tháng 9 ngày tù về tội “che dấu tội phạm”; áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 194 Bộ luật hình sự tuyên bố Lê Thu Huyền không phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

Ngày 17-6-2002 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm  đề nghị xử tăng hình phạt đối với Lê Thị Minh Hải và kết án Lê Thu Huyền, Nguyễn Thị Hương về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1334/HSPT ngày 16-8-2002, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên Lê Thu Huyền không phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”. Kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét lại trường hợp Lê Thu Huyền theo hướng kết án bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Ngoài ra bản án phúc thẩm đã tăng hình phạt đối với Lê Thị Minh Hải lên 10 năm tù và chuyển tội danh đối với Nguyễn Thị Hương sang tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhận thấy Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố Lê Thu Huyền không phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý” là không phù hợp với những tình tiết của vụ án và bỏ lọt người phạm tội, bởi vì:

– Theo lời khai của Lê Thị Minh Hải (là mẹ của Huyền) vào ngày 5-8-2000 thì  việc bán hêrôin Hải giao cho Siêu, Hương và Huyền khi có khách quen và đếm đủ tiền thì bán. Không bán cho khách lạ. Sau này Hải mới thay đổi lời khai và khai Huyền không tham gia bán hêrôin, lý do khai cho Huyền là nhằm làm nhẹ tội cho Hải.

– Theo lời khai của Lê Xuân Siêu tại các bản khai ngày 5-8; ngày 18-8 và bản tự khai ngày 8-8-2000 thì Huyền có tham gia bán hêrôin về  số lượng cũng như về giá cả là điều bí mật của Hải và Huyền. Nhưng đến các bản khai sau đó Siêu lại thay đổi lời khai, khi thì khai Huyền không tham gia mua bán hêrôin, khi thì khai Huyền có tham gia hay không bị cáo không biết được.

Còn lời khai của những người đã mua hêrôin của Huyền như: Trần Anh Kiệt khai: Kiệt cùng Dũng mua hêrôin của một người phụ nữ có tên là Phương. Tại biên bản nhận dạng Kiệt nhận người trong ảnh có tên là Phương đã bán hêrôin  cho Kiệt là ảnh của Lê Thu Huyền. Nhưng tại biên bản đối chất ngày 4-1-2002 giữa Kiệt với Huyền thì Kiệt lại khai không biết Huyền là ai; Huỳnh Nghĩa Nhơn khai: Nguyễn Văn Nam là người đã nhờ tôi mua hêrôin của chị Phương 3 lần, lần thứ nhất vào ngày 25-7-2005 và lần thứ 2 vào ngày 28-7-2000 mỗi lần tôi mua 2 chỉ với giá là 3,8 triệu đồng/2chỉ; lần thứ 3 vào ngày 3-8-2000 tôi điện cho chị Phương và hẹn chờ ở công viên đường Hùng Vương để lấy hàng thì bị công an bắt giữ. Lời khai này của Nhơn phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án là khi cơ quan điều tra đang lập biên bản phạm pháp quả tang đối với Hải, Siêu, Hồng và Hương và tạm giữ 2 chiếc điện thoại di động thì có một trong hai chiếc máy điện thoại di động này Nhơn đã gọi điện đến. chiếc máy điện thoại di động mà Nhơn gọi đến Huyền thừa nhận là của Huyền mới mua của một người không quen biết vào khoảng cuối tháng 7-2000; Nguyễn Thị Hồng tại bản tự khai ngày 3-8-2000 và lời khai ngày 29-8-2000 đều xác định mua hêrôin của Hải 6 lần, lần đầu tiên Huyền thu tiền còn Hương đưa hàng và lần thứ 5 Huyền thu tiền còn Hải giao hàng; Trịnh Minh Trung khai đã 5 lần mua hêrôin của chị Thuỷ ở quán cà phê. Tại biên bản nhận dạng Trung nhận người trong ảnh có tên là Thuỷ là Lê Thu Huyền.

Tổng hợp các lời khai và các tài liệu nêu trên cho thấy mặc dù tại cơ quan điều tra và tại các phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm Lê Thu Huyền không khai nhận đã tham gia mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng căn cứ vào lời khai ban đầu của Hải, Siêu, lời khai của những người đã mua hêrôin, biên bản nhận dạng và việc Nhơn gọi điện thoại đúng số điện thoại di động của Huyền cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận Lê Thu Huyền có dấu hiệu mua bán trái phép chất ma tuý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 1334/HSPT ngày 16-8-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ một phần bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và một phần bản án hình sự sơ thẩm  số 708/HSST ngày 12-6-2002 của Toà án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh đối với Lê Thu Huyền để xét xử sơ thẩm lại kết án Lê Thu Huyền phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

______________________

 

– Lý do kháng nghị huỷ một phần bản án hình sự phúc thẩm và sơ thẩm:

Mặc dù Lê Thu Huyền không nhận tội, lời khai của các bị cáo khác vàcủa người làm chứng có mâu thuẫn, nhưng đánh giá khách quan và toàn diện các lời khai, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì có căn cứ để kết luận Lê Thu Huyền phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm:

Tại quyết định số 20/2003/HĐTP-HS ngày 26-8-2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quyết định: “Huỷ một phần bản án hình sự phúc thẩm  số 1334/HSPT ngày 16-8-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và một phần bản án hình sự sơ thẩm số 708/HSST ngày 12-6-2002 của Toà án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử và tuyên áp dụng khoản 1 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 194 Bộ luật hình sự, tuyên bố Lê Thu Huyền không phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân  thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật” với nhận định như kháng nghị nêu trên.

 

5. Kháng nghị giám đốc thẩm Số 23/VKSTC-V3 ngày 24-10-2005 đối với vụ án Lê Thị Thanh Xuân phạm tội :”Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Xuất cảnh trái phép”

Xét bản án hình sự sơ thẩm số 75/HSST ngày 24-4-2000 của Tòa án nhân dân  tỉnh Lạng Sơn xử phạt Lê Thị Thanh Xuân sinh năm 1977; trú tại: số 26 đường Văn Vỉ, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng Sơn về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “xuất cảnh trái phép”.

(Trong vụ án này còn có Đàm Thị Thanh Vân bị xử phạt tù chung thân và Phan Quốc Huy bị xử phạt 20 năm tù đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”).

NHẬN THẤY

Vào khoảng giữa tháng 5-1999, Vũ Thị Bình (trú tại nhà số 88 Trần Quý Cáp, phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội) lên Lạng Sơn gặp Đàm Thị Thanh Vân và đưa cho Vân 02 ống thuốc tân dược của Trung Quốc bên trong có chứa chất lỏng màu vàng làm mẫu và thỏa thuận để Vân tìm mua loại thuốc này cho Bình với giá 700 đồng/ống.

Một tuần sau, Đàm Thị Thanh Vân cầm 01 ống thuốc mẫu nêu trên đến nhà Lê Thị Thanh Xuân và Vân nói với Xuân:  “có người đặt mua loại thuốc này” rồi dặn Xuân sang Trung Quốc mua về để bán. Theo lời dặn của Vân, Lê Thị Thanh Xuân đi một mình sang chợ Lũng Nghịu của Trung Quốc tìm mua của một người phụ nữ (không rõ họ, tên, địa chỉ) 2000 ống thuốc đúng theo mẫu Vân đưa với giá 600 NDT và thuê người mang về Việt Nam. Sau đó Xuân đã giao số thuốc này cho Vân (khi giao thuốc có cả chồng của Xuân là Phan Quốc Huy biết đây là thuốc tân dược gây nghiện mua từ Trung Quốc về). Sau khi nhận được 2000 ống thuốc của Xuân, Vân đã bán số  thuốc này cho Vũ Thị Bình với giá 1.400.000đồng. Vân đã đưa sốtiền này cho Xuân và được Xuân chia cho 100.000 đồng.

Ngày 31-5-1999, Xuân lại sang Trung Quốc tìm mua của người phụ nữ lần trước 2028 ống thuốc tân dược mang về gửi tại nhà ông Phan Văn Lục (là bố chồng của Xuân). Đến 18 giờ cùng ngày, Phan QuốcHuy đang trên đường vận chuyển 01 hộp thuốc (gồm có 894 ống thuốc) về nhà mình thì bị bắt quả tang, khám xét nhà ông Lục cơ quan Cảnh sát điều tra còn thu giữ 1134 ống thuốc nữa. Khám xét nhà Vân thu được thêm 04 ống thuốc cùng loại.

Theo thông báo kết quả giám định của Viện khoa học hình sự Bộ công an thì dung dịch chứa trong các ống thủy tinh nêu trên là thuốc tiêm Seduxen (Diazepam), nằm trong danh mục các chất ma túy.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 75/HSST ngày 24-4-2000, Tòa án nhân dân  tỉnh Lạng Sơn áp dụng diểm a khoản 4 Điều 185đ; khoản 1 Điều 89; khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985, xử phạt Lê Thị Thanh Xuân tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 01 năm tù về tội “xuất cảnh trái phép”. Tổng hợp hình phạt buộc Lê Thị Thanh Xuân phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là tù chung thân.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Lê Thị Thanh Xuân không kháng cáo và không bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đối với Lê Thị Thanh Xuân có hiệu lực pháp luật.

XÉT THẤY

Ngày 04-01-2000 Bộ luật hình sự năm 1999 được công bố, theo quy định tại điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH 10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội thì kể từ ngày Bộ luật hình sự  này được công bố không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ. Theo quy định tại Điều 274 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người có hành vi xuất cảnh trái phép chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Trước khi thực hiện hành vi xuất cảnh trái phép  Lê Thị Thanh Xuân chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “xuất cảnh trái phép”.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 75/HSST ngày 24-4-2000 của Tòa án nhân dân  tỉnh Lạng Sơn. Đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm để hủy phần tội danh, hình phạt đối với Lê Thị Thanh Xuân về tội “Xuất cảnh trái phép” và đình chỉ vụ án đối với Lê Thị Thanh Xuân về tội này; hủy phần quyết định tổng hợp hình phạt đối với Lê Thị Thanh Xuân tại bản án hình sự sơ thẩm nêu trên.

__________________ 

 

– Lý do kháng nghị hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm :

Căn cứ vào điểm c mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự và theo Điều 274 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Lê Thị Thanh Xuân không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “xuất cảnh trái phép” vì trước đó Lê Thị Thanh Xuân không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “xuất cảnh trái phép”vì trước đó Lê Thị Thanh Xuân chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này.

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm :

Tại quyết định giám đốc thẩm số 31/HS-GĐT ngày 30-11-2005, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: “Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 75/HSST ngày 24-4-2000 của Tòa án nhân dân  tỉnh Lạng Sơn về phần tội danh, hình phạt đối với Lê Thị Thanh Xuân về tội “Xuất cảnh trái phép” và đình chỉ vụ án đối với Lê Thị Thanh Xuân về tội này; hủy phần quyết định tổng hợp hình phạt ssối với Lê Thị Thanh Xuân tại bản án hình sự sơ thẩm nêu trên” với nhận định như kháng nghị nêu trên.

 

 

6. Kháng nghị giám đốc thẩm Số 07/VKSTC-V3 ngày 24/4/2006 đối với vụ án Đinh Thế Mạnh phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”

Xét bản án hình sự phúc thẩm số 58/2005/HSPT ngày 30/9/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt Đinh Thế Mạnh sinh năm 1983; trú tại: thôn 4, xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”.

NHẬN THẤY

Vào khoảng giữa tháng 2/2005 Đinh Thế Mạnh trú tại thôn 4, xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đi xe ô tô khách từ Quảng Bình ra Nghệ An mua của một người phụ nữ không quen biết 15 gói Hêrôin với giá 400.000đ. Sau đó, Mạnh về nhà ở Quảng Bình chia nhỏ số Hêrôin này thành 28 gói để bán cho những người nghiện ma tuý, trong đó bán cho Trần Quang Nghĩa (trú tại phường Bắc Nghĩa, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình) 15 gói Hêrôin, bán cho Trần Vương Ngọc (trú tại Tiểu khu 10, phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình) 08 gói Hêrôin và bán cho một số đối tượng nghiện khác không rõ địa chỉ.

Đến ngày 16/3/2005 Đinh Thế Mạnh lại đi xe ô tô khách từ Quảng Bình ra thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An mua 8 gói Hêrôin đưa về nhà, Mạnh lấy 6 gói chia thành 15 gói nhỏ rồi đem bán cho Hùng (trú tại phường Đông Sơn, thành phố Đồng Hới) 2 gói Hêrôin, bán cho Thắng 1 gói Hêrôin và bán cho một số đối tượng khác không rõ địa chỉ.

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23/3/2005 Mạnh mang 02 gói nhỏ Hêrôin đi bán cho một người tên là Hùng thì bị Công an thành phố Đồng Hới bắt quả tang, thu giữ trong người Mạnh 02 gói nhỏ chất bột màu trắng. Ngày 24/3/2005 khám xét nơi ở của Mạnh, Cơ quan điều tra thu giữ được 03 gói chất bột màu trắng.

Tại Bản thông báo kết luận giám định số 212/GĐ ngày 23/3/2005, Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: chất bột màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu vàng là chế phẩm Hêrôin, có trọgn lượng 0,0999 gam.

Tại Bản thông báo kết luận giám định số 214/GĐ ngày 28/3/2005, Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: chất bột màu trắng trong 03 gói giấy bạc màu vàng là chế phẩm Hêrôin, có trọng lượng 0,1194 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 44/2005/HSST ngày 12/8/2005 Toà án nhân dân  thành phố Đồng Hới áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt Đinh Thế Mạnh 04 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”; 03 năm 6 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”; buộc Đinh Thế Mạnh phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 07 năm 06 tháng tù.

Ngày 18/8/2005 Đinh Thế Mạnh có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 58/2005/HSPT ngày 30/9/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Đinh Thế Mạnh 04 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và tuyên bố Đinh Thế Mạnh không phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

XÉT THẤY

Đinh Thế Mạnh đã 02 lần từ Quảng Bình ra thành phố Vinh (Nghệ An) mua Hêrôin về bán cho các đối tượng nghiện trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, hành vi phạm tội của Mạnh phải bị truy tố và xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung hình phạt là “phạm tội nhiều lần”. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm kết án Đinh Thế Mạnh theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là áp dụng không đúng pháp luật; không tuyên tịch thu số tiền thu lợi bất chính của Mạnh do hành vi mua bán trái phép chất ma tuý mà có là trái với quy định tại điểm b khoản 1 Điều41 Bộ luật hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 58/2005/HSPT ngày 30/9/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình. Đề nghị Toà Hình sự – Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 44/2005/HSPT ngày 12/8/2005 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới đối với Đinh Thế Mạnh để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

________________________

 

– Lý do kháng nghị huỷ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm:

+ Áp dụng không đúng pháp luật đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

+ Không tuyên tịch thu số tiền thu lợi bất chính do hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo mà có.

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm:

Tại quyết định giám đốc thẩm số 21/2006/HS-GĐT ngày 19/7/2006, Toà Hình sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: “Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 58/2005/HSPT ngày 30/9/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình và bản án hình sự sơ thẩm số 44/2005/HSST ngày 12/8/2005 của Toà án nhân dân  thành phố Đồng Hới để điều tra lại” với nhận định như kháng nghị nêu trên.

 

7. Kháng nghị giám đốc thẩm số 03/QĐ-VKSTC-V3 ngày 24-02-2011 đối với vụ án Phan Quốc Bảo phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”

Xét bản án hình sự phúc thẩm số 95/2010/HSPT ngày 27/5/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã xét xử bị cáo Phan Quốc Bảo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

NHẬN THẤY

Theo bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thị xã Tây Ninh và bản án hình sự phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh thì nội dung vụ án như sau:

Phan Quốc Bảo (Bảo bóng, Út), sinh năm 1974; thường trú tại 67 khu phố Hiệp Lễ, phường Hiệp Ninh, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: thợ trang điểm; trình độ văn hoá: lớp 05/12; tiền án: ngày 23/3/2009 bị Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử phạt 3.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 06/11/2009, tại nhà của Phan Quốc Bảo ở số 67 khu phố Hiệp Lễ, phường Hiệp Ninh, thị xã Tây Ninh, Công an tỉnh Tây Ninh cùng Công an thị xã Tây Ninh bắt quả tang Phan Quốc Bảo đang bán ma tuý cho hai đối tượng là Đoàn Văn Lực (SN 1985) và Nguyễn Thành Nam (SN 1986).

Tang vật thu giữ khi bắt quả tang:

– Thu trong người Phan Quốc Bảo: 1.000.000 đồng tiền Việt Nam; 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen.

– Thu trong người Đoàn Văn Lực: 02 túi nilon có chứa chất rắn màu trắng.

– Thu tại phòng vệ sinh nhà Bảo: 02 túi nilon có chứa chất rắn màu trắng.

Tại kết luận giám định số 2412/C21B ngày 11/11/2009 của Phân viện Khoa học hình sự của Tổng cục cảnh sát tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

– Gói 1 (gồm 02 gói nilon thu trong nhà vệ sinh của Bảo): tinh thể trong suốt đựng trong 02 gói nilon có chứa thành phần Methamphetamine trọng lượng 0,2580 gam.

– Gói 2 (gồm 02 gói nilon thu trong người Đoàn Văn Lực): tinh thể trong suốt đựng trong 02 gói nilon có chứa thành phần Methamphetamine trọng lượng 0,1496 gam.

Theo lời khai của Đoàn Văn Lực và Nguyễn Thành Nam thì khoảng 10 giờ ngày 06/11/2009 Lực và Nam rủ nhau đi mua ma tuý để sử dụng. Lực góp 400.000 đồng, Nam góp 600.000 đồng đưa cho Lực. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Lực gọi điện cho Bảo hỏi mua ma túy dạng đá, Bảo đồng ý và hẹn đến nhà Bảo. Khi đến nhà Bảo thì Nam đứng ngoài đợi còn Lực vào nhà mua của Bảo 1.000.000 đồng ma tuý thì bị bắt quả tang.

Ngoài ra, các đối tượng sử dụng ma tuý là Lê Bình Phương Kha, Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Văn Bách, Trịnh Văn Tấn, Hà Minh Huy đều khai đã mua ma tuý của Bảo để sử dụng. Kết quả điều tra xác định được ngoài lần bị bắt quả tang, Phan Quốc bảo còn thực hiện hành vi mua bán trái phép ma tuý như sau:

– Khoảng 22 giờ ngày 05/11/2009 Lê Bình Phương Kha (trú tại Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh) cùng Đoàn Văn Lực đến hẻm 14 khu phố Hiệp Lễ để mua ma tuý. Khi đến nơi, Lực đợi ở ngoài còn Kha vào nhà Bảo mua 600.000 đồng ma tuý dạng đá để sử dụng.

– Khoảng tháng 8/2009, Nguyễn Văn Bách (trú tại ấp Cầu, Tân Phong, Tân Biên, Tây Ninh), Trịnh Văn Tấn (trú tại ấp Long Thới, Long Thành Trung, Hoà Thành, Tây Ninh), Nguyễn Hoàng Thọ (trú tại khu phố 1 thị trấn Tân Biên) cùng Gái vợ của Thọ đã đi xe du lịch của Thọ đến đầu hẻm 14 khu phố Hiệp Lễ và mua ma tuý của Phan Quốc Bảo với số tiền 1.200.000 đồng.

Quá trình điều tra, xét xử vụ án, Phan Quốc Bảo quanh co chối tội không thừa nhận việc mua bán ma tuý.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 17/2010/HSST ngày 09/02/2010 của Toà án nhân dân thị xã Tây Ninh áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt Phan Quốc bảo 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Ngày 13/02/2010 Phan Quốc Bảo kháng cáo kêu oan với lý do Bảo không bán ma tuý cho ai.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 95/2010/HSPT ngày 27/5/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh nhận định: lần bắt quả tang mua bán ma tuý ngày 06/11/2009 là có đủ chứng cứ buộc tội bị cáo Bảo. Còn lại các lần khác ngoài lời khai của các đối tượng mua ma tuý thì không có chứng cứ nào khác nên không đủ căn cứ kết tội bị cáo; quyết định: áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Quốc Bảo 04 năm tù.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thấy rằng:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phan Quốc Bảo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Toà án cấp phúc thẩm đã sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng Bộ luật hình sự. Cụ thể như sau:

Quá trình điều tra, xét xử vụ án, Phan Quốc Bảo luôn quanh co chối tội, nhưng theo lời khai của Đoàn Văn Lực thì: Lực đã mua ma tuý của Bảo rất nhiều lần, Lực còn giới thiệu cho Lê Bình Phương Kha (Tin) biết Bảo bán ma tuý để Kha mua ma tuý của Bảo sử dụng. Vào ngày 05/11/2009 Lực đi cùng với Kha đến nhà Bảo nhưng Lực đứng ngoài đợi còn Kha vào nhà Bảo mua ma tuý.(BL: 52-55)

Lời khai trên của Lực hoàn toàn phù hợp với lời khai của Lê Bình Phương Kha. Tại Cơ quan điều tra, Kha khai nhận: đã mua ma tuý của Bảo 02 lần; vào ngày 05/11/2009 Kha rủ Lực đến nhà Bảo mua ma tuý, đến đầu hẻm 14 thì Lực đứng đợi còn Kha vào gặp Bảo mua 600.000đ ma tuý đem về sử dụng (BL:60-61).

Các đối tượng Nguyễn Văn Bách, Trịnh Văn Tấn, Nguyễn Hoàng Thọ đều khai thống nhất với nhau như sau: khoảng tháng 8/2009, Bách, Tấn, Thọ và Gái (vợ Thọ) góp 1.200.000đ để đi mua ma tuý về cùng sử dụng. Sau khi gọi điện hẹn với Bảo, cả nhóm đi xe ôtô du lịch của Thọ đến đầu hẻm 14 phường Hiệp Ninh thì Bảo ra xem mặt và lấy 1 cục ma tuý (0,5 chấm) bán cho nhóm của Bách với giá 1.200.000đ (BL: 46-50).

Đối tượng Hà Minh Huy (trú tại số 9A đường Nguyễn Thị Minh Khai khu phố 4, phường 2 thị xã Tây Ninh) là người nghiện ma tuý và quen biết với Bảo khai: trong tháng 9/2009 Huy mua ma tuý của Bảo 02 lần. Lần thứ nhất Huy mua của Bảo 01 cục ma tuý giá 500.000đ; lần thứ 2 Huy mua của Bảo 01 cục ma túy với giá 700.000đ. Cả 2 lần Huy đều gọi điện thoại trước cho Bảo và hẹn gặp nhau ở đầu hẻm 14 để giao hàng và giao tiền. Đoàn Văn Lực cũng khai quen biết Huy và biết Huy thường mua ma túy của Bảo để sử dụng. (BL: 56,57)

Như vậy, lời khai của các đối tượng mua ma tuý của Bảo thống nhất với nhau nên phải được xác định là chứng cứ buộc tội đối với Phan Quốc Bảo.

Trong suốt quá trình điều tra, xét xử vụ án, Phan Quốc Bảo không thành khẩn khai báo, không ăn năn hối cải, thể hiện qua việc ngay cả hành vi phạm tội bị bắt quả tang với đầy đủ các chứng cứ rõ ràng nhưng Bảo cũng không thừa nhận. Đây là thủ đoạn của các đối tượng phạm tội, đặc biệt là tội phạm về ma tuý nhằm trốn tránh trách nhiệm trước pháp luật. Do đó, không thể căn cứ vào lời khai chối tội của Bảo mà bác bỏ toàn bộ lời khai của các đối tượng khác, trong khi các lời khai này phù hợp với nhau. Hành vi phạm tội của Phan Quốc Bảo là “phạm tội nhiều lần” và phải được xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Do có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến kết luận của bản án phúc thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; việc xét xử Phan Quốc Bảo theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự và áp dụng mức hình phạt quá nhẹ đối với Phan Quốc Bảo, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 95/2010/HSPT ngày 27/5/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Đề nghị Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 95/2010/HSPT ngày 27/5/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.

______________________________

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm:

Tại quyết định giám đốc thẩm số 10/2011/HS-GĐT ngày 21/7/2011 của Toà Hình sự Toà án nhân dân tối cao đã Quyết định:

+ Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 95/2010/HSST ngày 27/5/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm lại;

+ Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh giải quyết theo quy định của pháp luật.

  1. Kháng nghị tái thẩm số 02/QĐ-VKSTC-V3 ngày 09/08/2012 đối với vụ án Nguyễn Công Viễn phạm tội ” Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xét Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên kết án Nguyễn Công Viễn sinh năm 1966; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: thôn Lai Tảo, xã Bột Xuyên, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự. Nhân thân: tại Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt Nguyễn Công Viễn tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự.

(Trong vụ án này có 28 bị cáo không bị kháng nghị)

                                                                          NHẬN THẤY:

Theo nội dung bản án sơ thẩm: Từ tháng 9 năm 2004 đến cuối năm 2005 Nguyễn Công Viễn đã mua bán trái phép tổng cộng 2 bánh 8 cây Heroin với tổng trọng lượng là 971,6 gam Heroin.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 26/3/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên quyết định:

– Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Công Viễn tù chung thân về tội về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

– Áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt tử hình tại Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, buộc Nguyễn Công Viễn thi hành hình phạt chung của hai bản án là tử hình.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên bản án trên đã có hiệu lực pháp luật.

                                                                              XÉT THẤY:

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Tòa án Nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Công Viễn tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tổng hợp với hình phạt tử hình tại Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, buộc Nguyễn Công Viễn phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là tử hình là đúng quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, tại Quyết định số 1620/QĐ-CTN ngày 21/9/2011 của Chủ tịch nước về việc xét đơn xin ân giảm án tử hình của Nguyễn Công Viễn phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định ân giảm hình phạt tử hình cho Nguyễn Công Viễn xuống tù chung thân và quyết định này có hiệu lực từ ngày ký. Như vậy, Quyết định số 1620/QĐ-CTN ngày 21/9/2011 của Chủ tịch nước ân giảm hình phạt tử hình cho Nguyễn Công Viễn xuống tù chung thân tại Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội là tình tiết mới. Do vậy phải hủy phần quyết định tổng hợp hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên để tổng hợp lại hình phạt của bản án này với hình phạt tại Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đối với Nguyễn Công Viễn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

                                                                              QUYẾT ĐỊNH:

Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục tái thẩm hủy phần tổng hợp hình phạt đối với Nguyễn Công Viễn tại bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để tổng hợp lại hình phạt của hai bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với Nguyễn Công Viễn theo quy định của pháp luật./.

_______________________________

– Tại quyết định tái thẩm số 12/HS-TT ngày 11/10/2012 của Hội đồng xét xử tái thẩm Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao Quyết định:

Huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đối với Nguyễn Công Viễn về phần quyết định “

“Áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt tử hình tại Bản án hình sự phúc thẩm số 216/2007/HSPT ngày 21/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, buộc Nguyễn Công Viễn thi hành hình phạt chung của hai bản án là tử hình” để tiến hành việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo đúng quy định của pháp luật.

———————————————-

  1. Kháng nghị giám đốc thẩm số 08/QĐ-VKSTC-V3 ngày 06/7/2012 đối với vụ án Bùi Khắc Duy phạm tội ” Mua bán trái phép chất ma túy”

Xét Quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT ngày 30/3/2011 của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và bản án hình sự sơ thẩm số 103/2010/HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, đã xét xử bị cáo Bùi Khắc Duy, sinh năm 1987; đăng ký nhân khẩu thường trú tại thôn 2, xã Gia Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

NHẬN THẤY

Ngày 16/5/2010, Bùi Khắc Duy nhận lời mua 50 viên ma túy tổng hợp cho một đối tượng tên Báu béo (không rõ lai lịch). Duy gọi điện cho Đàm Văn Lên đang ở Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh nhờ tìm mua ma túy thì Lên nhận lời. Khoảng 10 giờ cùng ngày, Lên gọi điện thông báo cho Duy biết đã tìm được mối mua hàng, sau đó Lên đi sang khu vực đồi 12, thị xã Đông Hưng, Trung Quốc mua 50 viên ma túy tổng hợp giá 1.350 Nhân dân tệ. Khoảng 16 giờ cùng ngày, Lên mang ma túy đi theo đường biên giới về Việt Nam thì bị Đồn biên phòng cửa khẩu Móng Cái kiểm tra, bắt giữ. Kết quả giám định: 50 viên nén thu giữ của Đàm Văn Lên có tổng trọng lượng là 10,012 gam, có chứa chất MDMA nằm trong danh mục các chất ma túy và tiền chất ma túy.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 103/2010/HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Bùi Khắc Duy 07 năm 06 tháng tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 06 năm tù của bản án sơ thẩm số 38/2010/HSST ngày 26/7/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng, buộc bị cáo Duy phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 13 năm 06 tháng tù.

Tại kháng nghị giám đốc thẩm số 01/KNGĐT ngày 15/01/2011 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận định: bản án sơ thẩm số 103/2010/HSST của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái tổng hợp hình phạt 06 năm tù của bản án hình sự sơ thẩm số 38/2010/HSST ngày 26/7/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng, trong khi bản án số 38/2010/HSST đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh kháng nghị phúc thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là trái với qui định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, đề nghị Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh hủy phần tổng hợp hình phạt của bản án sơ thẩm số 103/2010/HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái để tổng hợp lại theo đúng qui định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT ngày 30/3/2011 của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

XÉT THẤY

Bản án sơ thẩm số 103/2010/HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái tổng hợp hình phạt 06 năm tù của bản án hình sự sơ thẩm số 38/2010/HSST ngày 26/7/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng trong khi bản án số 38/2010/HSST nói trên đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh kháng nghị phúc thẩm, là trái với qui định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 51 Bộ luật hình sự. Hơn nữa, ngày 25/11/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm số 38/2010/HSST, tăng hình phạt đối với Bùi Khắc Duy từ 06 năm tù lên 07 năm tù. Quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT ngày 30/3/2011 của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên bản án sơ thẩm số 103/2010/HSST nêu trên về phần tổng hợp hình phạt là không đúng. Do vậy, cần kháng nghị để hủy Quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT và phần tổng hợp hình phạt của bản án sơ thẩm số 103/2010/HSST nhằm khắc phục các sai sót nêu trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT ngày 30/3/2011 của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Đề nghị Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT ngày 30/3/2011 của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và bản án hình sự sơ thẩm số 103/2010/HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái về phần tổng hợp hình phạt để giải quyết vụ án về phần tổng hợp hình phạt theo đúng qui định của pháp luật./.

_____________________

–         Kết quả giám đốc thẩm của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao:

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 18 /2012/HS-GĐT ngày 13 /11 /2012 Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: Hủy quyết định giám đốc thẩm số 01/2011/HS-GĐT ngày 30/3/2011 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

  1. Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 103/2010HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh về phần quyết định “Áp dụng khoản 1 Điều 51 BLHS.

– Buộc Bùi Khắc Duy phải chấp hành hình phạt 06 (sáu) năm tù của bản án số 38/2010/HSST ngày 26/7/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh xử phạt về tội “Cướp tài sản”.

– Tổng hợp hình phạt: buộc bị cáo Bùi Khắc Duy phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 13 (mười ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 20/5/2010” đối với Bùi Khắc Duy.

  1. Giao Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh tiến hành tổng hợp hình phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự sơ thẩm số 103/2010/HSST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh với hình phạt 07 năm tù về tội “Cướp tái sản” tại bản án hình sự phúc thẩm số 136/2010/HSPT ngày 25/11/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại Điều 51 BLHS./.

———————————————-

  1. Kháng nghị giám đốc thẩm số 16/QĐ-VKSTC-V3 ngày 07/6/2010 đối với vụ án Tạ Thị Liên phạm về tội ” Mua bán trái phép chất ma túy”

Xét bản án hình sự phúc thẩm số: 213/2008/HSPT ngày 28/3/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã kết án Tạ Thị Liên, sinh năm 1955 tại Hưng Yên; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: số nhà 49 phố Quán Thánh, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; trình độ văn hóa lớp 7/10; nghề nghiệp: không; con ông Tạ Duy Chấn và bà Tạ Thị Ngạn; có chồng là Lại Huy Thảo và 5 con; chưa có tiền án, tiền sự, bị bắt giam từ ngày 08/9/2006 về tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

XÉT THẤY

Theo bản án phúc thẩm thì hành vi phạm tội của Tạ Thị Liên như sau: Do đã quen biết nhau từ trước trong việc buôn bán đồng bạc xòe nên Tạ Thị Liên và Đào Thị Nguyện bàn bạc với nhau để Nguyện mua Hêrôin từ miền núi mang về Hà Nội cho Liên bán để kiếm lời. Khoảng tháng 6/1998, Nguyện lên bản Xuân Tre, Tuần Giáo, Lai Châu mua 01 bánh Hêrôin của một người dân tộc, thuê Đào Bá Văn vận chuyển về Hà Nội. Nguyện báo cho Liên biết là đã gửi cháu Đào Thị Thu con anh Đào Tiến Thắng (là anh ruột Nguyện) bánh Hêrôin, khi nào Liên về quê gặp cháu Thu để lấy.

Mấy ngày sau, Tạ Thị Liên về quê, đến nhà Thu nhận Hêrôin. Sau đó Nguyện đến nhà Liên ở phố Quan Thánh để lấy tiền bán Hêrôin thì được Liên cho biết là người mua bánh Hêrôin này đã bị bắt nên không có tiền trả cho Nguyện. Liên chỉ trả cho Nguyện 1 dây chuyền bằng vàng 5 chỉ, 2 chiếc nhẫn vàng 3 chỉ (tổng số là 8 chỉ). Do việc mua bán bánh Hêrôin này không sòng phẳng nên Nguyện và Liên không quan hệ mua bán với nhau nữa.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 433/2007/HSST từ ngày 04 đến ngày 12/12/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự xử phạt Tạ Thị Liên 20 năm tù và phạt tiền 20.000.000 đồng.

Ngày 18/12/2007, Tạ Thị Liên có đơn kháng cáo với nội dung kêu oan. Vì bị cáo không quan hệ mua bán Hêrôin; Nguyện và Thu đã vu khống cho bị cáo.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 213/2008/HSPT ngày 28/3/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm đối với Tạ Thị Liên.

Quá trình điều tra, cũng như tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm Tạ Thị Liên đều kêu oan, không mua 1 bánh Hêrôin của Đào Thị Nguyện như bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã kết luận.

Căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Viện kiểm sát nhân dân tối cao xét thấy:

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết luận Tạ Thị Liên mua bán 1 bánh Hêrôin với Đào Thị Nguyện chỉ duy nhất dựa trên lời khai của Đào Thị Nguyện và Đào Thị Thu, ngoài ra không có chứng cứ nào khác để củng cố xác định sự trung thực về lời khai của Nguyện và Thu. Trong khi đó xét lời khai của Đào Thị Nguyện và Đào Thị Thu không thống nhất và có nhiều mâu thuẫn chính trong lời khai của Nguyện và Thu cụ thể là: Nguyện khai vào tháng 8/1998 lên bản Xuân Tre, Tuần Giáo, Lai Châu mua 1 bánh Hêrôin của một người dân tộc Thái (do anh Đạm giới thiệu Nguyện không nhớ tên) về bán cho Liên. (các bút lục 445, 446, 453, 458). Còn Đào Thị Thu lại khai là khoảng tháng 5/1998 Nguyện gửi Thu 1 bánh Hêrôin bảo Thu cất kỹ và khoảng 1 tuần sau thì Thu đưa bánh Hêrôin này cho Liên (bút lục 539, 557); Bản án sơ thẩm, phúc thẩm kết luận Nguyện bán 01 bánh Hêrôin cho Liên vào tháng 6/1998, như vậy có rất nhiều thời gian mua bán 01 bánh Hêrôin.

Đào Thị Nguyện khai sau khi gửi bánh Hêrôin cho Thu, Nguyện báo cho Liên, sau đó Nguyện chủ động gọi điện cho Thúy là bạn của Thu, nhà ở chợ Mới, xã Đồng Tiến, Khoái Châu, Hưng Yên nhắn Thu ra nghe điện và Nguyện nói Thu đưa bánh Hêrôin đó cho Liên (bút lục 461). Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, cũng như tại các phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm thì Đào Thị Thu khẳng định là khi Liên đến hỏi lấy bánh Hêrôin do Nguyện gửi, Thu không đưa ngay mà đi xe đạp ra Bưu điện Bô Thời (cách nhà Thu khoảng 2km) gọi điện thoại hỏi Nguyện, khi Nguyện nói cứ giao bánh Hêrôin cho Liên thì Thu mới về nhà lấy bánh Hêrôin giao cho Liên. Thu cũng khẳng định tại phiên tòa là chủ động gọi điện cho Nguyện tại Bưu điện Bô Thời, chứ không phải gọi ở nhà Thúy và Thu cũng không nói gì về việc ra nhà Thúy để nghe điện thoại của Nguyện (các bút lục 536, 539, 545, 557, 559 và 2795).

Về thời điểm Nguyện gửi bánh Hêrôin cho Thu thì giữa Nguyện và Thu khai cũng không thống nhất. Quá trình điều tra Nguyện và Thu khai Nguyện gửi bánh Hêrôin cho Thu vào buổi sáng, khoảng 1 tuần sau thì Liên đến lấy. Nhưng tại phiên tòa sơ thẩm Thu lại khai Nguyện giao bánh Hêrôin cho Thu và đi vào lúc sáng. Sau đó khoảng 1 – 2 tiếng (khoảng 10 giờ) thì cô Liên đến lấy (bút lục 2506). Còn tại phiên tòa phúc thẩm thì Nguyện lại khai gửi bánh Hêrôin cho Thu vào buổi chiều, Thu lại khai là vào buổi trưa (bút lục 2795).

Nguyện khai lấy đồng bạc trắng của Liên lên Tuần Giáo mua được 1 bánh Hêrôin về bán cho Liên, nhưng lại không lấy được đủ tiền nên từ đó không bán cho Liên nữa (bút lục 453). Lời khai này là mâu thuẫn, vì chính Nguyện đã thừa nhận lấy bạc trắng của Liên mua được 1 bánh Hêrôin thì lẽ ra Nguyện phải giao bánh Hêrôin đó cho Liên, chứ không phải là bán cho Liên, vì số bạc trắng đó Nguyện đã lấy của Liên và đủ để mua 1 bánh Hêrôin, nên không thể nói là Liên thiếu tiền bánh Hêrôin mua của Nguyện được.

Theo Đào Thị Nguyện khai anh Đạm (nhà ở phố Ngô Tất Tố) là người đã giới thiệu người dân tộc Thái ở bản Xuân Tre, Tuần Giáo, Lai Châu để Nguyện mua bán Hêrôin với người này và Nguyện đã thừa nhận từ tháng 6/1998 đến cuối năm 1998 đã lên nhà người dân tộc Thái ở Xuân Tre nhiều lần (5 lần) để mua Hêrôin về Hà Nội bán cho Tuấn, Ngọc và Liên ( bút lục 458, 445, 446, 453, 466, 467, 470, 441, 76). Nhưng Nguyện lại khai tại Cơ quan điều tra là không nhớ tên, không nhớ nhà và đường vào nhà người dân tộc đó, chỉ nhớ tên vợ anh ta là Oanh (hay Sao) gì đó. Lời khai này là không hợp lý và không có cơ sở, thể hiện khai báo thiếu trung thực của Đào Thị Nguyện, vì anh Đạm giới thiệu người bán Hêrôin cho Nguyện phải nói rõ họ tên, nhà cửa, đường đi lối lại thì Nguyện mới có thể đến nhà người đó được (vì Đạm không trực tiếp đi cùng Nguyện lên nhà người dân tộc ở bản Xuân Tre).

Theo Nguyện khai thì trong năm 1998, Nguyện đã bán 3 lần 3 bánh Hêrôin cho Liên, nhưng không có lần nào Nguyện khai gửi Thu 1 bánh để Thu giao cho Liên (bút lục 446, 453, 458). Chỉ từ bút lục 461 (lời tự khai ngày 14/8/2006) trở đi Nguyện mới khai về việc gửi Thu một bánh Hêrôin để Thu giao cho Liên, trùng hợp với lời khai cùng ngày14/8/2006 của Thu và cũng từ ngày 14/8/2006 Nguyện và Thu có nhiều lời khai về việc này, nhưng lại có nhiều mâu thuẫn như đã nêu ở trên.

Đào Thị Thu khai Nguyện giao cho Thu gói hàng (1 bánh Hêrôin), Thu cất vào cót thóc của gia đình, sau đó giao cho Liên (bút lục 536, 539, 545, 557, 559). Lời khai này của Thu là không đúng sự thật vì chính ông Đào Tiến Thắng (là bố của Thu) khai từ thời điểm năm 1998 đến nay gia đình ông không dùng cót thóc, lời khai này đã được luật sư công bố tại phiên tòa phúc thẩm (bút lục 2796). Còn bà Lương Thị Den (là mẹ đẻ của Thu) thì xác nhận chưa bao giờ bán rượu cho Liên và từ năm 1997 – 1998 không nhớ là Liên có sang nhà bà lần nào không và bà cũng không quan hệ mua bán gì với Liên cả (bút lục 551).

Tại phiên tòa phúc thẩm thì Đào Thị Thu cũng không xác định được người đến lấy gói hàng do Nguyện gửi là Tạ Thị Liên.

Mặt khác cần lưu ý là sự việc Đào Thị Nguyện gửi gói hàng cho Đào Thị Thu. Sau đó Thu giao lại cho Tạ Thị Liên là hết sức bình thường chỉ thoảng qua, không để lại dấu ấn sâu đậm gì, đã qua gần 10 năm mà Đào Thị Thu vẫn còn nhớ và khai báo rất chi tiết.

Từ sự phân tích trên cho thấy lời khai của Đào Thị Nguyện và Đào Thị Thu về việc Nguyện bán 1 bánh Hêrôin cho Tạ Thị Liên là không thống nhất, có nhiều mâu thuẫn, thể hiện sự thiếu trung thực. Do đó, không thể lấy những  lời khai đó làm chứng cứ để kết tội Tạ Thị Liên được. Việc khám xét nơi ở của Tạ Thị Liên không thu được gì có liên quan tới việc mua bán ma túy của Tạ Thị Liên.

Hồ sơ vụ án cũng chưa làm rõ được một số tình tiết như xác định ông Thắng (là bố của Đào Thị Thu) và bà Den vào thời điểm năm 1998 gia đình ông bà có dùng cót thóc không, và lấy lời khai của Thúy (bạn của Thu) để xác định lời khai của Đào Thị Nguyện là Nguyện đã gọi điện cho Thúy nhắn Thu ra nhà Thúy để nghe điện không; đồng thời cũng phải xác minh người dân tộc Thái ở bản Xuân Tre, Tuần Giáo mà Nguyện khai là đối tượng đã bán Hêrôin cho Nguyện vào năm 1998 là ai, để Nguyện mang về Hà Nội bán cho Liên.

Với những căn cứ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì chưa đủ cơ sở kết luận Tạ Thị Liên đã mua 01 bánh Hêrôin của Đào Thị Nguyện thông qua Đào Thị Thu, mà cần phải tiếp tục điều tra, làm rõ những vấn đề đã nêu ở trên để kết luận Tạ Thị Liên có mua bán 01 bánh Hêrôin không.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 213/2008/HSPT ngày 28/3/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm để huỷ một phần bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 433/2007/HSST ngày 04 đến ngày 12/12/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về tội danh và hình phạt đối với Tạ Thị Liên để điều tra lại theo thủ tục chung./.

________________________________

– Kết quả xét xử giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

+Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/2013/HS-GĐT ngày 07/01/2013 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 213/2008/HSPT ngày 28/3/2008 của Tòa phúc them Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm số 433/2007/HSST ngày 12/12/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần quyết định đối với Tạ Thị Liên để điều tra lại; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết theo thủ tục chung./.

 

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT DRAGON

Giám đốc - Thạc sĩ Luật sư:  Nguyễn Minh Long Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Điện thoại: 1900 599 979 / 098.301.9109
Email: dragonlawfirm@gmail.com
Hệ thống Website:
www.vanphongluatsu.com.vn
www.congtyluatdragon.com
www.luatsubaochua.vn
www.dragonlaw.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai